Đã 11 giờ trưa, chú Tâm Mãn mới đi học về, vừa đặt chiếc cặp lên bàn, miệng chú đọc rân bài thơ:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Nhìn vẻ mặt của chú ra chiều thích thú, thấy như vậy vị trụ trì trong chùa và mấy sư huynh của chú biết ngay hôm nay trên lớp chú được cô giáo dạy bài thơ ấy. Vì lần nào, hễ trên lớp được cô giáo dạy cho cái gì, là chú y như mình mới khám phá ra được một điều gì mới lạ. Trong lớp, chú chăm chú lắng nghe cô giảng, về chùa có chỗ nào chưa hiểu chú cứ ríu ra, ríu rít hỏi mãi thầy và mấy sư huynh của mình. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng chú là người ham học hỏi, có tinh thần cầu tiến cộng thêm bản chất thông minh sẵn có nên chú học rất giỏi, thầy và mấy sư huynh thương chú lắm, ít khi rầy la chú điều gì, nhưng đôi khi chú vẫn gặp kiếp nạn.
Hôm ấy, thầy và mấy sư huynh lớn đều đã ra đồng. Chỉ còn duy nhất chú Tâm Mẫn ở chùa, đây là sư huynh kế chú Mãn. Tuy chỉ lớn hơn chú Mãn có mấy tuổi, nhưng chú Mẫn trông rất vạm vỡ, tháo vát và khỏe mạnh hơn chú nhiều. Vì vậy, chú Mẫn rất sẵn sàng làm thay những công tác lặt vặt cho sư đệ Tâm Mãn mỗi khi cảm thấy vui. Vừa đi học về, cất vội chiếc cặp, Tâm Mãn vội chạy ngay ra giếng, nơi chú Tâm Mẫn đang loay hoay xách nước.
Chú Mãn hỏi:
– Sư huynh ơi! Thầy và mấy sư huynh đâu hết rồi?
– Đi ruộng rồi! – Chú Mẫn đáp cộc lốc mà không thèm nhìn chú Mãn.
– Thế chừng nào mới về?
– Không biết! – Vẫn thái độ đó, chú Mẫn tay cuốn cuốn thùng nước từ giếng lên.
Chú Mãn mon men lại gần:
– Núi Thái Sơn có lớn không sư huynh?
Lần này chú Mẫn nhìn chú Mãn rồi đáp:
– Lớn lắm, không những lớn mà còn đẹp nữa, chú đến đó mà không mê tít thò lò thì thôi luôn đó.
– Còn nước trong nguồn có nhiều lắm không hở huynh?
– Ừ!
– Nó chảy hoài mà không hết hở huynh?
– Ừ!
– Nó ở đâu vậy huynh?
– Thì ở trên núi Thái Sơn chứ đâu.
Nói xong chú Mẫn mới cảm thấy chột dạ, vì nãy giờ chú chỉ muốn ra oai với sư đệ mình, chứ thật ra chú cũng có biết gì đâu. Về phần chú Mãn nghe huynh mình nói vậy, trong lòng chú thầm thán phục vô cùng, không ngờ tầm hiểu biết của huynh mình cao siêu đến vậy.
– Vậy hôm nào huynh xin phép thầy dẫn em lên núi chơi nha huynh!
Biết là không thể thực hiện được, chú Mẫn ra chừng chững chạc bảo:
– Tu hành lên núi Thái Sơn làm gì! Muốn đi chơi thì đợi khi nào lớn rồi đi. Núi vẫn nằm ở đó chứ có biến đi đâu đâu mà sợ.
Nghe vậy chú Mãn cảm thấy mát lòng, vì chú đinh ninh rằng, thế nào lớn rồi mình cũng được lên núi Thái Sơn chơi. Được đà chú hỏi tiếp:
– Thế nghĩa mẹ là gì hở huynh, nó ra sao?
Đang loay hoay cuốn nước từ giếng lên, chưa biết trả lời sao. Bỗng chú Mẫn hụt tay, thùng nước rớt lại xuống giếng cái “tủm”. Cái cần quay, quay quay thật nhanh rồi tình cờ đánh “độp” vào tay chú Mẫn một cái, đau điếng. Không để ý gì đến nỗi đau của sư huynh mình, chú Mãn chỉ nằng nặc.
– Nói đi huynh nó là gì vậy?
Đang bực mình, Tâm Mẫn nổi cáu, quát:
– Nhiều chuyện quá! Bộ tính làm nhà thông thái hay sao mà hỏi nhiều vậy, đi vô mau!
Hồi nào giờ, chưa hề bị la, kể cả thầy cũng có la đâu, giờ bị sư huynh nạt như vậy, Tâm Mãn cảm thấy ức lắm, phần thì nghĩ sư huynh ăn hiếp mình, phần thì sự hiểu biết của mình chưa thông. Chú không hiểu cũng phải thôi, bởi chú đâu có cha mẹ. Chú đâu biết tình cảm của cha mẹ đối với con cái. Thầy trụ trì đã lượm chú về nuôi hồi chú còn đỏ hỏn. Chú dần lớn lên dưới sự chăm sóc che chở của thầy, chú cũng không hề thắc mắc. Đến hôm nay, được cô giáo dạy cho bài thơ về công cha nghĩa mẹ, mặc dù chú hết sức tập trung nghe cô giảng nhưng vẫn không hiểu hết. Chú lầm lũi bước vào phòng ngồi khóc thút thít một mình, lát sau lẽ ra chú đã nín rồi nhưng lại nghe tiếng bước chân sột soạt, chú đoán chắc là thầy đã về. Chú càng khóc to hơn nữa vì chú biết rằng, thế nào thầy cũng đến an ủi, vỗ về chú. Bởi lẽ thầy thương chú lắm. Quả đúng y như chú nghĩ, thầy vừa treo chiếc áo nhựt lên móc vừa hỏi chú:
– Sao con lại khóc vậy? Muốn làm đệ tử Phật con phải mạnh mẽ lên chứ! Không được khóc nữa xấu lắm.
Được đà chú nhõng nhẽo với thầy:
– Dạ bạch thầy! Ở nhà, sư huynh ăn hiếp con!
– Sư huynh ăn hiếp con sao kể cho thầy nghe coi.
Chú kể lại sự tình, thầy an ủi:
– Thôi! Sư huynh không giải thích cho con hiểu, để đó thầy giải thích cho. Bây giờ, con hãy đi rửa mặt cho sạch, ăn cơm rồi lên ngủ. Sau giờ cơm chiều thầy sẽ giải thích.
Trong lòng Tâm Mãn mừng lắm, chú nín khóc ngay, rồi ngoan ngoãn làm theo lời thầy. Cơm chiều xong, thầy và chú cùng ra chiếc ghế đá ngoài đài Quan Âm dưới gốc cây dương. Hai thầy trò ngồi bên nhau, từng đợt gió hiu hiu thổi tới, trên ngọn dương từng bầy chim đang chơi đùa ríu rít, lâu lâu chúng đáp xuống cạnh thầy và chú rồi vụt bay lên, y như là chúng tới để thông báo điều gì mật thiết lắm. Thầy lần lượt giải thích cho chú nghe cặn kẻ. Giờ chú mới biết hồi sáng sư huynh mình nói sai hết. Thật ra, núi Thái Sơn chỉ là một hình tượng biểu trưng cho sự hùng vĩ, bao la, to lớn như tấm lòng của một người cha. Còn nguồn nước, mạch nước dưới đất có thiếu gì mà huynh lại nói là ở trên núi Thái Sơn. Nghe thầy giảng giải hồi lâu, hình như chú nhận ra được điều gì, rồi bỗng dưng hai hàng nước mắt lăn tròn trên đôi gò má bầu bĩnh của chú. Thầy nhấc chú ngồi vào lòng, ôm lấy chú rồi tiếp tục giải thích. Bỗng chú ngắt lời thầy:
– Vậy thầy có phải là cha của con không hở thầy? Vậy mẹ con đâu?
Thầy trầm ngâm hồi lâu, không biết nói sao cho chú hiểu, nếu nói thật ra chú là em bé mồ côi thầy lượm về thì tội nghiệp cho chú quá, vì chú còn quá nhỏ, lẽ nào lại cho chú biết sự thật.
– Ừ! Mẹ con sẽ ghé thăm con một ngày gần đây thôi!
Mắt chú bỗng sáng lên.
– Thiệt hở thầy?
– Ừ!
Rồi thầy nói tiếp.
– Bây giờ con ráng học, ráng tu cho giỏi, để mai mốt má con lên thăm sẽ vui nghe con!
Chú dạ một cách ngoan ngoãn, cũng không thắc mắc gì nữa, ngồi trong lòng thầy, nghe thầy nói rồi chú thiếp đi lúc nào không hay. Và hôm nay, chú được học bài thơ “hoa sen”, về chùa chú đọc rân trời như thế, nhưng lần này thầy không thấy chú hỏi lại như những lần trước, thầy đinh ninh rằng chú đã hiểu. Bẵng đi một thời gian sau đó, chiều hôm ấy sau giờ cơm chiều, thầy gọi chú đến. Thầy hỏi:
– Con còn nhớ bài thơ về hoa sen hồi còn nhỏ con học không?
– Dạ bạch thầy con nhớ!
– Con hiểu như thế nào nói lại thầy nghe thử coi?
– Dạ bạch thầy theo con hiểu, sen là một loài hoa tinh khiết, biểu trưng cho một tâm hồn trong sáng, hiền lành của con người Việt Nam. Đặc biệt là những người dân lao động, giữa một xã hội phong kiến, bất công nhưng vẫn giữ được một tâm hồn thanh cao. Mỗi con người chúng ta phải giống như loài hoa sen, luôn trong sáng tinh khiết và biết vươn lên dù hoàn cảnh nào đi nữa.
Đó là tất cả những gì tâm hồn non nớt của chú Tâm Mãn hiểu được. Tuy giờ đây chú không còn là chú nhóc con như hồi còn học ở cấp I nữa. Giờ chú Mẫn đã học lớp 12, còn chú Mãn đang học lớp 10. Bài thơ hồi ấy chú đã quên lãng đi lâu rồi, nhưng tại sao bây giờ thầy lại hỏi. Chú hiểu rằng chắc có vấn đề gì thầy muốn nhắc nhở chú đây.
Thầy mỉm cười hiền hòa nói:
– Con giỏi lắm!
Thầy hỏi lại chú.
– Thế con có biết tại sao hoa sen thường được trưng bày trong những ngôi chùa không?
Mặc dù chú đã quen thuộc với những hình ảnh hoa sen, nhưng điều thầy hỏi thật sự chú vẫn chưa được hiểu tận tường.
– Dạ bạch thầy con không hiểu! – Chú khẽ đáp.
Thầy bảo chú vào kêu chú Mẫn cùng ra, hai chú ngồi cạnh thầy rồi bắt đầu câu chuyện.
Các con có biết không chính thầy và các con, mỗi chúng ta là mỗi đóa hoa sen đấy. Hoa sen là biểu tượng ẩn dụ cho mỗi con người đều sẵn có Phật tánh. Dù nằm trong bùn nhơ, trải qua nhiều ngày tháng nhưng hoa sen vẫn chờ ngày vươn mình lên khỏi mặt nước rồi khoe hương, khoe sắc cho đời. Bùn chính là tượng trưng cho sự phiền não, nhiễm ô, còn sen là tiêu biểu cho sự thanh tịnh. Cũng như thầy và các con vậy, hoa sen chính là Phật tánh trong thầy và các con. Phật tánh ấy vốn thanh tịnh, sáng suốt, nhưng vì vô minh vọng nghiệp tạo ra tội lỗi, phải dính mắc vào cảnh trần lao ô nhiễm này.
Hai chú ngồi say mê nghe thầy nói, giọng thầy hôm nay trầm hùng và nghiêm trang quá. Tuy tâm hồn chú Mãn lúc này còn non dại nhưng tận sâu trong đáy lòng, chú cũng cảm nhận một điều gì đó rất quan trọng, mà thầy chú muốn mách bảo chú. Chiều buông xuống thật nhẹ nhàng, từng cơn gió rít nhẹ lướt qua, ánh nắng dần nhường chỗ cho khoảng không gian về chiều thật mát mẻ. Thầy hỏi hai chú bằng một giọng thật nhẹ nhàng, thân mật:
– Thế các con có tin mình sẽ thành Phật bằng chính Phật tánh của mình không?
– Dạ bạch thầy, tin là trong con có Phật tánh thì con có tin. Nhưng chuyện thành Phật thì… thì…
Thấy cả hai chú đều có vẻ lúng túng, lưỡng lự thầy nói tiếp:
– Một người xuất gia, học đạo phải có niềm tin vững chắc “niềm tin là cửa ngõ bước vào đạo, là mẹ đẻ sinh ra tất cả các công đức”. Nên trong 11 tâm sở thiện niềm tin là tâm sở đầu tiên. Trước tiên, các con phải tin vào đức Phật, một con người hoàn toàn có thật. Ngài đã vượt qua sự cám dỗ của cung vàng, điện ngọc, trải qua bao nhiêu gian nan, thử thách để tìm ra con đường giải thoát, giác ngộ cho chúng ta hôm nay. Các con phải tin vào giáo pháp của Ngài, “khổ, tập, diệt, đạo” là bốn chân lý chắc thật muôn đời không sai lệch. Nhưng các con còn phải tin vào chính khả năng giác ngộ của bản thân mình. Trong kinh Phạm Võng, Phật dạy: “Đại chúng lòng nên tin chắc, ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Các con phải tin rằng nhất định các con sẽ thành Phật.
Ngồi nghe thầy dạy mà trong lòng các chú thầm hãnh diện, lân lân vui sướng, vì các chú được ở với thầy từ nhỏ, nên đối với thầy các chú luôn có một niềm tin vững chắc. Thầy bảo các chú sẽ thành Phật các chú tin liền mình sẽ thành Phật. Ngắt dòng suy tư của các chú, thầy bảo tiếp:
– Tuy Phật tánh trong mỗi con người sẵn có, như bản chất của hoa sen vốn thanh lương dù mọc trong bùn lầy, nhưng vì chúng ta bám theo dòng vô minh, vọng tưởng mà dính mắc trong trần lao ô nhiễm. Muốn khơi dậy bản chất vốn trong sáng ấy, các con cần phải có thêm một đặc tính nữa của sen, đó chính là trừng thanh, nơi nào có sen mọc nơi ấy nước sẽ không bao giờ đục. Đặc tính trừng thanh này, các loài hoa khác không có, nếu như các con biết áp dụng đặc tính này vào cuộc sống thực tế hằng ngày rất có lợi ích, vì sao các con biết không?
Không để các chú trả lời, thầy nói tiếp:
– Vì thường xuyên lóng lặng cấu uế, phiền não nước hồ tâm các con mới trong sạch, thanh lương, phiền não không có thì ta mới an lạc, hạnh phúc. Nhưng muốn đạt được an lạc, hạnh phúc thật sự các con phải trải qua một quá trình thực tập lâu dài, cũng cần có đức tính kiên nhẫn. Hoa sen mang một đức tính kiên nhẫn kì lạ các con có biết không! Rễ và cũ của nó nằm sâu trong bùn thật lâu, để chờ đợi khi hội đủ nhân duyên thì nẩy mầm ngay. Sự chờ đợi đó chính là lòng kiên nhẫn. Đức tính này rất cần thiết cho người xuất gia như các con trong đời sống hằng ngày. Việc đời cũng như việc đạo muốn đạt được kết quả tốt, các con phải có lòng kiên nhẫn. Đây là một đức tính thiết yếu trong đời sống hướng thượng, thăng hoa của các con. Chẳng khác nào như hoa sen đã vươn lên tìm sự sống cao đẹp. Sen còn một điểm lạ khác thường, tất cả các loài hoa đều đua nhau khoe sắc vào mùa xuân ấm áp. Duy chỉ có sen nở vào mùa hạ, đây là mùa nóng bức, oi ả nhưng sen vẫn vươn mình mọc lên. Điều này để nói lên dù cho thầy và các con đang sống trong nhà lửa tam giới đầy rẫy những dục vọng, tham, sân, si… nhưng chúng ta phải cố gắng vượt qua, hãy dùng nước chánh pháp để tưới tẩm tâm hồn. Muốn có được một đời sống an lạc, tươi mát, thơm tho như hoa sen, các con cần phải học thêm một đức tính nữa của loài sen, tức là “nhân quả đồng thời” đấy. Tất cả các loài hoa khi bông tàn mới kết nụ thành trái, nhưng đối với sen khi mới nở đều sẵn có gương và hạt. Điều này mang một triết lý sống, đó chính là nhân quả không bao giờ sai khác, nhân quả như hình với bóng, hình thế nào thì bóng thế ấy. Các con nên sống theo lý nhân quả để hành xử biết mình, biết người, chắc chắn các con sẽ tìm được sự an lạc ngay trong đời sống này, không cần phải tốn công hao sức tìm đâu cho xa xôi. Niết – bàn hay đau khổ chính nơi tâm các con.
Buổi nói chuyện của ba thầy trò gần hai tiếng đồng hồ, gió đã rít từng cơn, bóng tối dần như áng hết cả không gian. Tâm hồn chú Mãn cứ miên man, không phải đây là lần đầu tiên thầy và chú ngồi nói chuyện lâu như thế, nhưng lần này chú cảm thấy khác quá, rồi chú hiểu ra đời người xuất gia học đạo rất quan trọng và cao quý lắm. Cuộc đời ấy phải tựa hồ như loài hoa sen, nó phải mang đầy đủ những đặc tính cao quý, nào là không nhiễm ô, phải trừng thanh, kiên nhẫn v.v.. còn nhiều lắm nhưng muốn đạt được những thứ ấy thầy đã dạy chú rất tỉ mỉ trong cuộc sống hằng ngày. Thầy bảo chú rằng:
– Trong người các con đều có sẵn một bông sen vốn thanh khiết. Để đóa sen ấy luôn tươi tốt tỏa hương cho đời, hằng ngày, các con phải chăm sóc nó bằng bốn đức tín: từ, bi, hỷ, xả.
Thời gian dần trôi, bài học hẳn in sâu vào tâm chú Mãn. Đến hôm nay chú đã là học tăng. Chú và chú Tâm Mẫn được thầy cho phép nhập học ở trường Cao trung Phật học một năm, trong khoảng thời gian ấy, chú chăm lo học hành. Đến hôm nay, sắp đến ngày Phật Đản, chú được nghe giáo thọ sư giảng về “Bảy đóa sen vàng nâng gót ngọc”. Một lần nữa, chú được học về bài học hoa sen, bao kỉ niệm xưa dần quay trở về trong kí ức. Bài học về hoa sen mà năm xưa thầy đã bỏ hàng giờ để giải thích cho chú hiểu, từng chi tiết một đã quay về. Vốn kiến thức chú đã có được, chú càng hiểu sâu hơn những lời dạy của thầy năm xưa. Chú thầm cảm ơn nghiệp duyên của mình. Nhớ lại hồi ấy, hồi đầu năm chú lên lớp 10, thầy bảo chú là đứa con mồ côi được thầy đưa về nuôi đến lớn, mặt dù chú biết thầy thương chú lắm nhưng chú vẫn buồn, chú khóc nhiều bởi chú là một người không cha, không mẹ.
Nhưng giờ đây chú không còn buồn nữa, có chăng chỉ là một thoáng qua trong tâm trí chú thôi. Chú thầm cảm ơn hai đấng sanh thành cha và mẹ, người đã tạo nên hình hài này cho chú, thầm cảm ơn cơ duyên mà chú bị bỏ rơi ngay hồi nhỏ. Chính nhờ những cơ duyên này, giờ đây chú mới được như thế, được làm đệ tử của thầy, được thấm nhuần giáo lý, được tắm gội trong biển Phật pháp. Thật đáng trân quý! Bởi lẽ, chú hiểu rằng: Sanh làm người là khó, được gặp Phật pháp càng khó hơn. Nhưng chú còn cảm nhận được cơ duyên to lớn và quan trọng nhất, đó chính là cơ duyên mà chú được gặp thầy. Thầy chính là một bậc minh sư, nuôi lớn mầm sống trong chú, là người đưa đường dẫn lối chú vào đạo.
Chú thầm nghĩ, nếu là một người bình thường, có đầy đủ cha mẹ liệu chú có được xuất gia không, được gặp thầy không, được tắm mình trong Phật pháp không? Mãi miên man suy nghĩ đã 11 giờ khuya, mà sao lạ quá chú không ngủ được. Nhiều lắm, nhiều kí ức tuổi thơ sống bên thầy hiện về trong chú. Chú nhận thấy rằng, đôi lúc thầy cũng dịu dàng, tươi mát như một người mẹ hiện ra bên chú, mỗi lần chú gặp phải điều gì buồn phiền hay uất ức cần tỏ bày, thầy lần lượt khuyên nhủ, an ủi chú. Rồi mỗi lần lầm lỗi, hình ảnh thầy lại hiện ra như một người cha uy nghiêm, cứng rắn để răn dạy. Rồi thầy lại trở về với chức trách là một người thầy để hướng dẫn, nâng đỡ chú từng bước trên con đường đạo.
Thầy phải luôn đảm nhiệm cả ba trách nhiệm vừa là cha, là mẹ, là bậc minh sư cho chú. Nghĩ đến đây, sao chú cảm thấy thương thầy quá, lòng thầm bảo, chú phải trở thành một đóa sen luôn tươi mát, thơm tho như thầy chú đã từng mong muốn, để rồi có thể tỏa hương cho đời, mùi hương sen thanh khiết ấy sẽ dâng lên cúng dường bậc thầy khả kính. Trời đã về khuya, màn đêm bao phủ, ngoài hiên chùa lất phất từng giọt mưa rơi, không gian đã tràn ngập hơi lạnh bởi khí trời. Nhưng lúc này lòng chú bỗng ấm lại, bởi lẽ trong tim chú luôn tràn ngập tình thương ấm áp của thầy đối với chú, cũng như của chính chú đối với thầy. Rồi chú mỉm một nụ cười thật an lạc, nhẹ nhàng vào giấc ngủ.
Diệu Lộc (ĐSHĐ-007)
Pv.Minh Nguyệt diễn đọc