(Kính dâng Giác linh Tôn Sư thượng Như hạ Huyền
Viện chủ Tịnh Nghiêm Quảng Ngãi)
Trời về Đông cõi lòng nghe buốt giá
Nhớ ngày này Đinh Mão Sư về Tây
Trên không trung lơ lửng vài đám mây
Như thương tiếc vầng ô sắp khuất núi.
Thật vậy, đang học bài để chuẩn bị cho ngày mai lên lớp, nghe hung tin đưa đến con bàng hoàng như mơ như thật. Nhờ an thân nơi Ni trường, con đã khôn lớn dần theo năm tháng.
Mỗi lần về thăm, Tôn Sư đều hỏi han về sự học. Qua sự hạch bài bất chợt như thế, con hơi lúng túng, nhưng rồi cũng trả bài được, vì ở Ni trường Sư trưởng thượng Như hạ Thanh và quý Ni trưởng động viên học hành, giám sát rất kỹ, nên những bài học ấy đã in sâu vào tâm thức, con trả bài suôn sẻ, nên Tôn Sư rất vui. Nay, bỗng dưng nghe tin sét đánh bên tai!
Gió lốc mây chiều buồn ảm đạm
Sóng đùa, nước tủi ngập trời sâu!
Bước những bước chân khập khễnh, con lên phòng quý Sư bà xin phép về thọ tang, được quý Sư bà chấp thuận và gởi lời cầu nguyện Giác linh Tôn Sư cao đăng Phật quốc. Ngồi trên xe mà lòng rối bời trăm mối. Những hình ảnh thân thương năm nào cứ trào về, như cuộn phim quay về ký ức. Ngày đó con từ huyện Mộ Đức về Tịnh Nghiêm Sư Nữ xin thế phát xuất gia, lúc ấy con 16 tuổi đầu, nhưng ngây ngô, vì ở miền quê không lanh lẹ như người thành thị. Thế rồi Tôn Sư đã chặt phá những cỏ cây phiền não, vô minh, đã nhiều đời bám chặt nơi con. Tôn Sư đã uốn nắn, tỉa cành, chỉ lưu lại những nhánh cây hữu dụng. Tôn Sư đã dạy đồ chúng về tứ oai nghi, đi, đứng, nằm, ngồi sao cho xứng đáng là trang Thích tử, trong đó có con.
Con được theo hầu Tôn Sư khi Sư đi làm các Phật sự, qua sự hoạt bát và khôn khéo của Tôn Sư, con học rất nhiều về thân giáo. Đối với Đại Tăng, Sư khiêm cung một lòng kính mến, con nhớ mãi cứ đến mùa An cư, Tôn Sư hay chiên bánh mì, rắc đường và làm thức ăn đi cúng các Trường hạ. Tôn Sư thường nói: “Quý Thầy tuổi mới lớn, dùng cơm Quá đường sợ chưa no, mình cúng món này, quý Thầy thức chúng, dùng thêm để vào lớp học.” Ôi! Đến khi con vào Ni trường, hàng ngày giờ giấc Tu học nối nhau liên tục, con ngẫm lại lời Tôn Sư dạy năm xưa thật là chí lý. Đó chính là thân giáo, là tấm lòng luôn nghĩ đến đàn hậu học tương lai. Những lúc Tôn Sư bách bộ trong sân chùa hay vào các phòng làm công nghệ, Tôn Sư luôn mặc áo dài và trên tay cầm chiếc nón lá. Con không thấy Tôn Sư mặc đồ ngắn ra ngoài, dù là bách bộ trong Nội viện. Điểm đặc biệt của Tôn Sư là suốt năm Người đều đắp y, trì bát một mình, không bắt chúng thực hành như thế. Trừ ba tháng An cư, ngoài ra các bữa ăn trong ngày, vẫn dọn cơm ở Trai đường để Đại chúng thọ thực. Đến bây giờ tuổi chúng con đã “Thất thập cổ lai hy”, mà vẫn chưa thực hành được như Tôn Sư. Nói rất dễ, nhưng đem ra thực hành, thì ôi thôi! Thiên nan, vạn nan. Đang miên man suy nghĩ, xe đã về đến bến lúc nào chẳng hay. Khi hành khách xuống, con mới bừng tỉnh la lên “Ồ! Quảng Ngãi đây rồi.” Con về đến cổng Tịnh Nghiêm, Tăng Ni và Phật tử nhộn nhịp công việc của mình trong những ngày tang lễ Cố Sư bà. Bước vào Tổ đường, đứng trước kim quan Sư bà con nghe lòng mình đau buốt.
“Tôn Sư ơi! Vô thường giây phút ấy
Thế là con, thật sự mất Sư rồi
Tâm buốt đau, lòng tê tái khúc nôi
Còn đâu nữa, lời Tôn Sư dạy bảo!”
Những năm ấy, kinh tế khó khăn, nước nhà mới hòa bình lập lại, nên tang lễ của Tôn Sư cũng gói gọn như bao nhiêu người dân khác. Không được trang trí trên kim quan như quý Ni trưởng thời hiện tại, không có đệ tử hầu kim quan, không tổ chức đám tang long trọng như bao nhiêu vị Tôn túc khác, nhưng có lẽ một đời hành đạo của Sư bà, chỉ ẩn dật, không muốn phô bày sự tu hành của mình để được người đời khen ngợi. Có lẽ Sư bà đã muốn được tròn hạnh nguyện tri túc của mình, nên phủi sạch bụi trần, ra đi trong giai đoạn này, để thực hiện trọn hoài bão của mình.
Đức Phật dạy: “Chúng sanh sở dĩ bị lưu chuyển trong sáu nẻo luân hồi là bởi mê mất bổn tâm, nhận thân Tứ đại là thật, rồi lo trau chuốt cái thân giả tạm này, gọi là chấp ngã, hễ ai đụng đến mình là không được, hay những cái sở hữu, tuy là vật ngoài thân, nhưng vì chấp đắm, nên ai đụng đến là một phen sống chết với họ”. Còn Tôn Sư thì ngược lại, suốt ngày lo cho đàn trẻ thiếu nhi vì trận bão năm Giáp Thìn (1964) gây nên, và chiến tranh để lại hậu quả, là những đứa bé bị mất cả Cha lẫn Mẹ, nên Tôn Sư còn nghĩ gì đến thân mình? Tôn Sư thường dạy: “Người học Đạo, vì không sáng tỏ chân tâm nên mới đắm say nơi dục lạc.” Bởi vậy Đức Thế Tôn dạy: “Người tu hành, trước hết phải dứt cái cội rễ sanh tử luân hồi, cái cội rễ dứt rồi, thì các thức mới không còn chỗ nương tựa. Từ đó mới phục hồi cái tánh bổn lai được, tức là trở về cái tánh bản lai thanh tịnh của chính mình.”
Tôn Sư đã 6 năm tham học tại Ni trường Diệu Đức (Huế), đã am tường Giới luật, vì thế, nên sự ra đi của Tôn Sư như có định hướng.
Một đời tinh tấn tu hành
Giới thân huệ mạng tịnh thanh vâng thờ
Đời Ngài là một bài thơ
Chân tâm tự tại chẳng mờ, sáng trong.
TKN. Hạnh Phước
Sc. Nhẫn Hòa diễn đọc