Mục tiêu tối hậu của người xuất gia học Phật duy nhứt chỉ là lo“việc sanh tử” của kiếp nhân sinh. Từ cổ chí kim, tất cả đều cùng hướng đến chí nguyện độ sanh, muốn làm thế nào xây dựng cho nhân loại có một ngôi nhà tâm linh an lạc và giải thoát thật sự. Thế nên hoài bảo duy nhất của người xuất gia học Phật là không hề có sự tham cầu vụ lợi, không tranh quyền đoạt vị, không tính toán hơn thua và xả bỏ những gì mà con người trên trần thế không thể xả bỏ được, luôn tranh đua, giựt giành, nắm bắt cho là của ta, tài sản của ta, cho là hạnh phúc, an vui thật sự. Cuối cùng chỉ đưa đến sự lo âu, sầu khổ, tuyệt vọng. Khi liễu ngộ, mới nhận ra chơn lý vĩnh hằng và biết mình chỉ đang nắm bắt một cái bóng, hay một làn hương.
Nhưng xã hội đời thường có câu người xuất gia không lao động, mà chỉ biết: “Ngồi trong mát, hưởng bát vàng”. Như vậy quan niệm được hiểu thế nào?
Như tất cả đều biết, cuộc sống đời thường của nhân loại luôn bị sự chi phối của tiền tài, vật chất, giàu nghèo, buồn, vui, sướng, khổ, thăng, trầm, vinh nhục… chỉ biết quanh quẩn và cam chịu cho kiếp sống nhân sinh, không làm sao thoát khỏi vòng vây của biển trần sanh tử. Chính vì thế, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại thế gian vì mục đích “Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến, nên Ngài đã hy sinh cuộc đời vương giả, xuất gia tu học, quyết tìm ra chân lý chắc thật để giúp chúng sanh hiểu bản chất như thật của cuộc đời và tiến tu đạo nghiệp, mong được thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.
Hình ảnh của những vị xuất gia đệ tử Phật là như trong kinh Pháp Cú:
“Nhứt bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Kỳ vi sanh tử sự
Giáo hóa độ xuân thu.”
Được tạm dịch:
“Một bát cơm ngàn nhà
Chân đi muôn dặm xa
Chỉ vì việc sanh tử
Giáo hóa độ qua ngày.”
Tại sao người xuất gia không lao động và vất vả tảo tần hôm sớm “Một nắng, hai sương” hoặc giả phải tất bật lo toan đổi lấy công sức của mình trên “thương trường” như những người thế tục, mà phải Bát cơm xin ngàn nhà? Như vậy là người vô tích sự hay hình ảnh đó hiện diện trên thế gian làm gánh nặng cho cuộc đời này chăng? Tổ Bách Trượng cũng dạy: “Nhứt nhật bất tác, nhất nhật bất thực”. Nghĩa là Một ngày không làm, một ngày không ăn.
Cuộc sống đời thường con người phải chạy theo vật chất riêng tư, nhưng đa phần con người phải vượt lắm nhiều gian truân, thử thách và luôn bị công danh sự nghiệp chi phối và rất nhiều nỗi bất an đang diễn ra phía trước. Nhu cầu đời sống con người phải gắn liền hai lĩnh vực, đó là vật chất và tâm linh. Bởi lẽ, sự có mặt của tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, chính là tìm lại sự cân bằng cho lĩnh vực tâm linh để an trú thanh lọc nội tâm, làm cho đời sống tâm linh con người thật sự an lạc và hạnh phúc và làm ruộng phước điền vô thượng cho chúng sanh gieo trồng căn lành, lánh dữ làm lành, tô bồi các công đức lành khác. Câu nói người xuất gia không lao động, mà chỉ biết: “Ngồi mát, hưởng bát vàng” là quan điểm của một thiểu số người chưa am hiểu triệt để giáo lý đạo Phật và sự tu hành đúng nghĩa. Những lời nói trên có đúng chăng chỉ áp dụng cho số phần tử “Mượn đạo tạo đời” làm ảnh hưởng đến uy danh và tôn chỉ mục đích đạo Phật. Tinh thần đạo Phật chỉ dựa trên nền tảng căn bản của“Y BÁO VÀ CHÁNH BÁO”.
Trên lộ trình của người học Phật cũng phải phấn đấu bằng sức lao động như bao người bình thường khác. “Lao động” theo tinh thần đạo Phật chính là người lái đò cho“Phật pháp” đưa chúng sanh vượt bể trầm luân, nắm vững tay chèo trên con thuyền “LỤC ĐỘ”, vượt dòng sông sanh tử, phải chống chọi với phong ba bão tố, vượt qua những chướng ngại, gian lao thử thách của cuộc đời, phải trang bị cho mình chiếc áo Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ kiên cố, mới mong thực hiện được chí nguyện: “Tác Như lai sứ, hành như lai sự”. Mạng mạch Phật pháp chính do bàn tay của hàng Tăng sĩ trưởng dưỡng Giới thân huệ mạng và bảo vệ sự tồn vong, hưng thạnh của Phật pháp, khơi dậy ánh sáng chánh pháp, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức.
Có thể nói vai trò và trách nhiệm kể cả tâm nguyện, ý chí, hành động của người học Phật hoàn toàn khác với người bình thường. Vì bổn phận của người Tu sĩ “Cắt ái từ sở thân, xuất gia hoằng thánh đạo”. Trong đời sống tu tập không phải đơn thuần, mà phải làm những gì người đời ít ai làm được, kham nhẫn những gì ít ai kham nhẫn được. Hiện tại và mãi mãi, thật chất hình ảnh và sự tu tập của những vị Tu sĩ phải là những viên kim cương chiếu tỏa màu sắc ĐẠO HẠNH, là sự tướng đến nội tâm, thanh lọc những triền phược, xả ly những kiến chấp, là chiếc chìa khóa trí tuệ mở cửa kho tàng Phật pháp, vun trồng những bông hoa giới hạnh làm ngát hương giải thoát cho đời.
Sự hiểu lầm về người xuất gia “Ngồi mát, hưởng bát vàng” đã có từ thời vua A Dục. Do vị hoàng đệ Vi Ta của Ngài cũng từng có tư tưởng chỉ trích về đời sống tu hành của Đức Phật và Tăng đoàn thời bấy giờ, cho rằng những Tu sĩ học Phật là những người trốn lánh trần gian, vào chùa hưởng thụ, là những người chỉ biết thọ dụng của cúng dường v.v… không đồng tình việc cúng dường và ủng hộ Tam bảo của vua A Dục. Đức vua đã nhân cơ hội hoàng đệ Vi Ta phạm lỗi (do thích làm vua để thọ hưởng dục lạc). Ngài cho người hoàng đệ ấy làm vua và hưởng dục lạc trong bảy ngày, sau đó phải xử tội tử hình. Trong bảy ngày làm vua và hưởng dục lạc của Vi Ta, người không cảm thấy khoái lạc, mà chỉ cảm nhận những đau khổ chết chóc đang chực chờ trước mắt, người đã nhận ra chân lý của đạo Phật một cách như thật: “Ngày nay đã qua, mạng sống giảm lần, như cá cạn nước, nào có vui gì”.
Trong kinh Bồ Tát Phạm Võng luôn khuyến tấn hàng học Phật “Sắc trẻ không dừng, dường như ngựa chạy, mạng người vô thường mau hơn nước dốc, ngày nay dầu còn khó bảo đảm được ngày mai. Đại chúng mỗi người nhất tâm cần cầu tinh tấn, chớ biếng nhác trễ lười, phóng túng ngủ nghỉ. Ban đêm phải nhiếp tâm niệm Phật tham thiền, chớ để thời gian luống qua vô ích mà sau này ăn năn không kịp”
Chí nguyện của vị xuất gia học Phật quả là người không bao giờ dám ngồi không thọ hưởng dục lạc của trần gian một cách an nhiên, luôn tinh tấn tu hành như “lửa đốt đầu”. Lấy việc “Sanh tử sự đại” làm mục tiêu, chánh niệm tỉnh giác, nỗ lực tiến tu làm lợi ích hiện tại và tương lai cho mình và tất cả chúng sanh.
Tấm gương sáng và giáo pháp của Đức Phật đã để lại thế giới Ta bà hơn 25 thế kỷ, những ai muốn học và hành theo Đức Phật, làm bậc mô phạm thánh thiện, khoan dung, từ hòa, sống đời sống vị tha, vô ngã, luôn áp dụng bài pháp “TỨ VÔ LƯỢNG TÂM” Từ, bi, hỷ, xả lên vị trí hàng đầu, luôn khắc niệm và thực hiện chí nguyện “Tác như lai sứ, hành như lai sự”, ngõ hầu báo đáp Phật ân và cứu giúp ba cõi. Đó chính là tâm nguyện duy nhứt của người xuất gia học Phật.
Nếu quan niệm cho rằng người xuất gia học Phật “Ngồi trong mát, hưởng bát vàng” thì thế gian này biết bao người đã từng tham vọng muốn mình được ngồi không thọ hưởng, nhưng lại có bao giờ đạt được. Bởi điều này được ca dao Việt Nam khẳng định: “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho”. Như vậyss, tất cả sự thành tâm cúng dường phẩm vật và sự thọ nhận cúng dường theo tinh thần đạo Phật chỉ vì mục đích “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”, cùng làm nhân duyên hỗ tương cho nhau, cùng tu tập thoát khỏi biển trần sầu khổ.
NS. TN. Như Hương (ĐSHĐ-138)