Xuất thân cao quý ngọc ngà,
Chuyên tâm hướng Phật “Thánh Hiền Như Lai”.
Tu như ánh nắng ban mai,
Thành Người ban phước khắp nơi Ta bà.
Phổ Hiền Bồ tát (dịch âm là Tam mạn đà bạt đà la). Phổ là biến khắp, Hiền là Đẳng giác Bồ tát, Phổ Hiền là vị Bồ tát Đẳng giác có năng lực hiện thân khắp mười phương pháp giới, tùy mong cầu của chúng sanh mà hiện thân hóa độ. Bồ tát Phổ Hiền được miêu tả là hiện thân của tất cả những công đức và thực hành tâm linh. Đây là một trong những điều không thể thiếu trong việc đạt được Phật quả. Ngài là một trong Bát Đại Bồ tát của Phật giáo Đại Thừa.
Sự tích về Ngài Phổ Hiền
Khi chưa xuất gia học đạo, đức Phổ Hiền còn làm con thứ tư tước vị Thái tử của vua Vô Tránh Niệm, tên là Năng-đà-nô. Nhờ phụ vương khuyên bảo nên Thái tử mới phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và chúng sanh trong ba tháng. Lúc ấy có quan đại thần Bảo Hải thấy vậy, khuyên rằng: “Nay Điện hạ có lòng làm được việc công đức rất tốt như thế, xin hãy hồi hướng về đạo Vô thượng Bồ đề mà cầu được thành Phật, hơn là cầu sự phước báu hữu lậu nơi cõi Nhơn, Thiên, vì cõi ấy còn ở trong vòng sinh tử.”
Thái tử Năng-đà-nô nghe quan đại thần khuyên bảo như vậy, liền bạch với Phật Bảo Tạng rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi có món công đức cúng dường Ngài và đại chúng trong ba tháng, xin hồi hướng về đạo Vô thượng Chánh giác, nguyện phát tâm Bồ đề, tu hạnh Bồ tát mà giáo hóa mọi loài chúng sanh được thành Phật đạo và nguyện được cõi Phật rất thanh tịnh trang nghiêm, bao nhiêu những sự tốt đẹp và sự giáo hóa chúng sanh đều y như thế giới của Đức Phổ Hiền Như Lai vậy.”
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe Năng-đà-nô Thái tử phát nguyện như vậy liền thọ ký rằng: “Hay thay! Hay thay! Ngươi phát thệ nguyện rộng lớn, muốn độ hết thảy chúng sanh đều thành Phật đạo. Trong khi tu Bồ tát đạo, dùng trí kim cang mà phá nát các núi phiền não của mọi loài chúng sanh, vì vậy nên ta đặt hiệu ngươi là Kim Cang Trí Huệ Quang Minh Công Đức, trải hằng sa kiếp làm nhiều công việc Phật sự rất lớn, rồi đến thế giới Bất Huyền ở phương Đông mà thành Phật, hiệu là Phổ Hiền Như Lai, chừng đó những sự tốt đẹp trang nghiêm của ngươi đã cầu nguyện thảy đều như ý.”
Khi đức Bảo Tạng Như Lai thọ ký rồi, tự nhiên giữa hư không có nhiều vị Thiên tử ở các cõi Trời đem đủ thứ bông thơm đẹp đến mà cúng dường và đồng thanh khen ngợi.
Thái tử Năng-đà-nô thưa với Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu những sự ao ước của tôi ngày sau quả nhiên được như lời Ngài thọ ký, nay tôi kính lễ Ngài và chư Phật mà xin làm sao hằng sa thế giới có đủ món hương rất tốt, rất thơm, mùi hương bay khắp trong các cõi và mọi chúng sanh, hoặc ở trong địa ngục, ngạ quỷ cùng súc sanh, cho đến các người ở cõi Thiên thượng nhân gian đương mắc phải nghiệp báo gì, nếu ngửi được món hương thơm ấy, tức thì đều được thoát khổ và lại hưởng sự an vui.”
Thái tử Năng-đà-nô thưa rồi đang cúi đầu lễ Phật, thì trong các thế giới mười phương tự nhiên có mùi hương thơm bay đến. Lúc đó mọi loài chúng sanh ngửi được mùi hương ấy, lòng dạ hớn hở, các phiền não thảy đều tiêu trừ. Năng-đà-nô Thái tử nhờ Phật thọ ký như vậy, thân tâm vui mừng, bèn đảnh lễ Phật, rồi ngồi xuống nghe Ngài thuyết pháp.
Thái tử Năng-đà-nô nhờ công đức đó nên sau khi mạng chung, sanh ra các thân khác và các đời khác, kiếp nào cũng nhớ lời thệ nguyện chăm làm Phật sự và hóa độ chúng sanh, để cầu cho mau chóng viên mãn những gì mình đã ao ước, phát nguyện. Bởi Ngài có lòng tu hành tinh tấn như vậy nên sau khi đã thực hiện nhiều công việc Phật sự lớn nên được đến thế giới Bất Huyền thành Phật, hiệu là Phổ Hiền Như Lai. Nay hóa thân vô số ở trong các thế giới mà giáo hóa chúng sanh.
Mười hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ tát
Căn bản tu tập của Phật giáo Đại thừa, Kim Cương thừa là Nhị Tư Lương (Phúc – Trí, Phương tiện – Trí tuệ, Bồ đề tâm – Trí tuệ). Nếu Văn Thù đại diện cho Trí tuệ thì Phổ Hiền đại diện cho Phương tiện, hạnh nguyện lớn lao vĩ đại.
Người ta thường có câu nếu thấy Phổ Hiền Bồ tát sẽ thấy được chân lý. Vì vậy nên những ảo tưởng, ảo vọng là không có thật, chúng ta cần tránh xa để trở về với chân lý. Hãy dùng trí tuệ để nhìn vào chân lý mới có thể giác ngộ được như Đức Phật, hãy gạt bỏ mọi vô minh. Việc của chúng ta cần noi theo các hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ tát để diệt những ích kỷ hẹp hòi trong con người của mình.
1) Lễ kính chư Phật: Hạnh nguyện này của Bồ tát Phổ Hiền muốn nói về việc tin sâu vào mười phương chư Phật và tự thanh tịnh về ba nghiệp đó là thân – khẩu – ý của bản thân để có thể tự lễ kính chư Phật.
2) Xưng tán Như Lai: Đây là hạnh nguyện muốn chỉ sử dụng các loại âm thanh cũng như ngôn từ để có thể xưng tán được công đức vô cùng sâu dày của các Như Lai.
3) Quảng tu cúng dường: Có thể sử dụng thêm pháp để cúng dường, chẳng hạn như pháp tu hành, lợi ích của chúng sinh, chịu khổ thay cho chúng sinh, không xả hạnh Bồ tát… Trong các loại cúng dường như hoa man, âm nhạc, y phục hay các loại hương hoa, thì dùng Pháp để cúng dường được xem là thù thắng nhất.
4) Sám hối nghiệp chướng: Đây là hạnh nguyện để thanh tịnh cho ba nghiệp mà chúng sinh đã gây ra đó là Tham – Sân – Si có từ vô thủy kiếp quá khứ và xuất hiện cho tới nay. Nhờ vào hạnh nguyện này để xin phát lồ sám hối hết thảy và nguyện sẽ không tái phạm lại những ác nghiệp trên.
5) Tùy hỷ công đức: Hạnh nguyện thứ năm này có nội dung là hoan hỷ và tán thán thiện pháp cùng các công đức của hết thảy chư Phật. Nó bao gồm hết thảy pháp thế gian và hết thảy xuất thế gian. Cùng với đó chính là hết thảy của công đức các vị Bồ tát, Thanh văn và Bích Chi Phật hay công đức của những dạng loài có trong tứ sinh…
6) Thỉnh chuyển Pháp luân: Ý muốn nói đến việc ân cần, và lòng thành kính trong sử dụng những lời nói, hành động và ý nghĩ. Kèm theo đó là sử dụng các phương pháp khác nhau để có thể thỉnh mời được chư Phật tuyên thuyết diệu pháp.
7) Thỉnh Phật trụ thế: Hạnh nguyện này muốn cầu thỉnh tất cả các vị Phật, các vị Bồ tát, Thanh Văn, Duyên Giác cùng với những vị Thiện tri thức hãy vì lợi ích của mọi chúng sanh và đừng nhập Niết-bàn.
8) Thường tùy Phật học: Hạnh nguyện này muốn nói rằng đạo Phật không phải là đạo để thuyết giảng và cũng không phải đạo của các nghi thức thờ phụng. Không phải tối ngày chúng ta tụng niệm những gì Phật dạy mà thay vào đó cần phải thể hiện ngay trên bản thân thông qua từng lời ăn, tiếng nói, cách cư xử, hành động lúc nào cũng cần phải tự tại, an nhiên, uy nghiêm nhưng phải có sự từ bi.
9) Hằng thuận chúng sinh: Từ vô thủy chúng sinh đã sống trong tham dục. Vì vậy, hàng Bồ tát tu theo Phật cũng phải dựa vào tham dục mà chúng sinh đang sống cùng để giáo hóa được chúng sinh. Bồ tát cũng dựa vào đây để giảng về lòng tham và giúp chúng sinh tu phước.
10) Phổ giai hồi hướng: Ý nghĩa của hạnh nguyện này là chuyển sự thành công của bản thân với lòng biết ơn tới tất cả mọi người. Đồng thời đây là sự khiêm tốn, là sự chia sẻ niềm vui với mọi người.
Ý nghĩa hình tướng của Phổ Hiền Bồ tát và sự thờ phụng
Theo kinh Pháp Hoa, Ngài là vị Bồ tát ở quốc độ của Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương, phía Đông cõi Ta bà, nghe thế giới này thuyết kinh Pháp Hoa liền lãnh đạo năm trăm vị Đại Bồ tát đến nghe pháp và phát tâm hộ trì Chánh pháp của Đức Phật. Bồ tát Phổ Hiền được xem là người hộ vệ của những ai tuyên giảng đạo pháp và đại diện cho “Bình đẳng tính trí” tức là trí huệ thấu hiểu cái nhất thể của sự đồng nhất và khác biệt.
Ngài thường xuất hiện trong bộ ba ngôi cùng với Phật Thích Ca và Văn Thù Sư Lợi Bồ tát gọi là Thích Ca tam tôn. Ngài đứng bên phải còn Văn Thù đứng bên trái Đức Phật Thích Ca và có khi họ được vây quanh bởi mười sáu thiên thần bảo vệ cho kinh Bát Nhã. Cả hai được coi là những cao đồ của Thích Ca Mâu Ni, có lẽ từng là đệ tử thực sự của vị Phật lịch sử. Ngài là vị đầu tiên trong Ngũ Thiền Bồ Tát, tương ứng với Ngũ Thiền Phật của Bắc Tông. Ngài ngụ hướng Đông, ở Tây Tạng, có thời người ta thờ Ngài như là Nhiên Đăng Cổ Phật (Adi Buddha), nhưng hiện nay chỉ còn những tín đồ của tông Ninh Mã (Nyingma) giữ tín điều đó. Một vài phái Mật Tông ở vùng Hy Mã Lạp Sơn cho rằng, chính vị Bồ tát này chứ không phải Đại Nhật Phật là đấng sáng tạo ra Mật Tông Phật giáo, trong đó tín đồ tìm cách hồi thông và hợp nhất với thần linh.
Trong hệ thống Ngũ Phật, Phổ Hiền được xem ở trong nhóm của Phật Đại Nhật. Tùy khí của Ngài chính là viên bảo châu mà Ngài thường cầm nơi tay trái hoặc tay phải cầm hoa sen, trên hoa sen đó là viên bảo châu. Trong nhiều biểu thị, một trong hai bàn tay Ngài bắt ấn giáo hóa, với ngón cái và ngón trỏ, chạm nhau thành hình tam giác, có khi là trang sách ghi thần chú của Bồ tát.
Tại Việt Nam hay Trung Quốc, Ngài Phổ Hiền được xem là một trong bốn Đại Bồ tát. Tuy nhiên, ở đất nước Trung Hoa tuyên truyền trú xứ của Ngài là núi Nga Mi, nơi Bồ tát lưu trú sau khi cưỡi voi trắng sáu ngà từ Ấn Độ sang Trung Quốc. Bồ tát cưỡi voi trắng sáu ngà, voi trắng tượng trưng cho trí huệ vượt chướng ngại, sáu ngà tượng trưng cho chiến thắng sáu giác quan (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý), bốn chân biểu thị bốn điều như ý, bốn loại thiền định.
Trong Kim cương thừa, tên Phổ Hiền được sử dụng chỉ Phật Bản Sơ hiện thân của Pháp thân.
Tại Nhật Bản và nhiều vùng khác Ngài cũng được thờ phượng qua hình tướng mật nhiệm Fugen Emmei Bosatsu (Phổ Hiền Dương Mệnh Bồ tát).
Qua việc thờ phụng Đức Bồ tát Phổ Hiền mang lại sự phước lành cho những nơi chuyên tâm tuyên giảng đạo pháp.
Nhân dịp lễ vía Bồ tát Phổ Hiền (21/2 âm lịch) mong cầu toàn thế giới luôn an lạc, thái bình.
“Con đem tâm hiểu biết rộng sâu
Tin tưởng chư Bụt trong ba đời
Con nương sức hạnh nguyện Phổ Hiền
Cúng dường khắp hết các Như Lai.”
(HT. Thích Nhất Hạnh dịch)
(279, tạng Kinh Đại Chánh)
Thích Nữ Chân Mỹ (ĐSHĐ-117)