Trong nền văn học Việt Nam nói chung và văn học Phật giáo nói riêng, đặc biệt là sự ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với các tác phẩm văn chương nổi tiếng ở Việt Nam, nhưng nổi bật nhất vào thế kỷ XIV đầu thế kỷ XIX. Ở đó, nó không chỉ là những nhà Nho hay nhiều nhà sư thuần túy, mà có khi là một tác giả có cả thơ Nho lẫn thơ thiền. Trong đó, tư tưởng thiền và Phật ảnh hưởng đến nhiều thơ văn tác giả nhất như Truyện Kiều của Nguyễn Du (1766 – 1820); Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều (1741 – 1798), hay một số bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến… và Phật – Thiền dường như là một đề tài khá hấp dẫn đối với thơ văn của họ, đặc biệt là Nguyễn Trãi. Như chúng ta đã biết, trước thời Nguyễn Trãi, Phật giáo phát triển rất mạnh và trở thành quốc giáo, song đến thời Nguyễn Trãi thì Phật giáo không còn phát triển mạnh nữa mà thay vào đó là Nho giáo. Lẽ ra, Nguyễn Trãi phải lấy lý luận của Nho giáo để làm nguyên lý cho cuộc đời mình. Vậy mà giờ đây ông lại thốt lên lời “cái mũ của nhà Nho đã đánh lừa ông từ lâu1”và ông nhận ra rằng, công danh sự nghiệp mà Nho phấn đấu chỉ là hão huyền mà thôi.
Cho nên, gần cuối đời ông về ở ẩn tại Côn Sơn nơi quê ngoại, thường có mối quan hệ sâu sắc với Phật giáo, ông đến chùa, giao du học hỏi với những vị Tăng. Và cũng từ đây Phật giáo là nơi để ông gởi gắm tâm tư tình cảm của mình cho những ngày cuối đời. Nếu những tác phẩm khác cho ta biết và đánh giá được những gì đã có do vị anh hùng dân tộc có tầm cỡ đã xây dựng nên, thì giờ đây trong thơ Nguyễn Trãi, đặt biệt là Quốc Âm Thi Tập và Ức Trai Thi Tập, là hai tác phẩm thể hiện được con người bên trong của ông, phần lớn được viết tại Côn Sơn, đây là giai đoạn mà ông “tĩnh tâm” nhất trong đời mình để suy ngẫm lại cuộc đời và thân phận của chính mình. Vậy thì Phật giáo đã mang lại cho ông những cảm hứng gì cho những năm cuối đời và tư tưởng ấy được thể hiện như thế nào trong thơ ông. Đồng thời, việc tìm hiểu cảm hứng Phật thiền trong thơ văn Nguyễn Trãi, cũng chính là tìm lại phong cách sống của ông thời bấy giờ. Hơn nữa, việc tìm hiểu này cũng cho ta có một cái nhìn đúng đắn về tư tưởng của một nhà Nho đối với Phật giáo.
Vì đây là một vấn đề khá mới mẻ, nó không như những vấn đề thuần túy về Phật giáo, cũng không nhiều độc giả quan tâm. Tuy nhiên, ở một khía cạnh nào đó nó là một vấn đề khá hấp dẫn đối với những ai thích nghiên cứu và tìm hiểu. Chuyên mục này cũng đã có một số bài viết ở dạng một tham luận như “Về quyết định của Nguyễn Trãi trong quan hệ với Thiền Phật giáo” của Trần Nguyên Việt, bài “Từ không lý và vô niệm của kinh Kim Cang đến hành động đại nghĩa của Nguyễn Trãi” của Thích Thái Hòa đã đề cập đến một số kinh liên quan đến thơ Nguyễn Trãi hay một số vấn đề khác nói về thiền ý trong thơ văn ông và còn nằm rải rác trong một số sách khác như Tổng Tập Văn Học Việt Nam. Ở đây, người viết chỉ xin đề cập một số tư tưởng tạo ra nguồn cảm hứng trong thơ Nguyễn Trãi mà đặt biệt là trong hai tập thơ Quốc Âm Thi Tập và Ức Trai Thi Tập. Để hiểu rõ hơn về cuộc đời và cũng như con người của ông.
Sơ lược về tác giả
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, sinh năm 1380 tại thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay) nơi tư dinh của ông ngoại là Trần Nguyên Đán, cuối đời nhà Trần. Thân phụ là Nguyễn Ứng Long, thân mẫu là Trần Thị Thái, bà là con gái thứ ba của hoàng thân Trần Nguyên Đán. Thuở bé Nguyễn Trãi đã nổi tiếng học giỏi, không những thông suốt Tứ Thư, Ngũ Kinh, mà còn am tường các sách Bách gia Chư tử, và xa hơn nữa tinh thạo cả sách binh thư chiến lược. Trong cuộc đời ông giữ nhiều chức vụ trong triều đình. Tuy nhiên, vì bản tính cương nghị, ghét luồn cúi và luôn luôn theo chính đạo, trọng nhân nghĩa, lại sợ không khỏi gặp những điều có hại đến bản thân nên ông xin từ chức, lui về ở ẩn tại núi Côn Sơn, đây là nơi trước kia Trần Nguyên Đán đã dưỡng già. Nợ nước ơn vua đã đền xong, thảnh thơi giữa cảnh non nước hữu tình, suy ngẫm chuyện đời mà ký thác tâm sự. Tưởng chừng như cuộc sống mới sẽ yên ổn, nào ngờ chỉ 3 năm sau, năm ông được 63 tuổi (1442), bỗng đâu tai họa ập đến bất ngờ, đó là vụ án Vua đột ngột băng hà tại Lệ Chi Viên (vụ án Lệ Chi Viên) Nguyễn Trãi bị gian thần vu cho tội giết vua và xử án tru di tam tộc. Ông mất ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất (tức 19 tháng 9 năm 1442), hưởng thọ 63 tuổi.
Mãi đến 23 năm sau, vua Lê Thánh Tông thấu rõ nỗi oan của Nguyễn Trãi và công nhận ông là một nhân vật cao quý, từng có công lớn trong việc xây dựng nhà Lê. Vua bèn xuống chiếu giải oan cho ông (1464), truy tặng ông chức Vĩnh lộc Đại phu, tước Tế Văn Hầu, cấp cho họ Nguyễn của ông 100 mẫu ruộng để tế tự. Có thể nói rằng, Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự lỗi lạc, một nhà chính trị thiên tài sáng suốt, mà còn là một nhà thơ một nhà văn hóa xuất sắc trong nền văn học Việt Nam, góp phần tạo ra một nền văn hóa nước nhà rực rỡ. Ông là một trong những tác giả xuất sắc nhất về thể loại văn học ở các lĩnh vực chữ Hán và chữ Nôm. Đã để lại một khối lượng sáng tác khá lớn với nhiều tác phẩm có giá trị về thơ có Quốc Âm Thi Tập, (chữ Nôm) Ức Trai Thi tập (chữ Hán), Dư Địa Chí, Quân Trung Từ Mệnh tập. Và những văn tập như Bình Ngô Đại Cáo, Phú Núi Chí Linh, Văn Bia Vĩnh Lăng (Bia văn vua Lê Thái Tổ).
Hiện nay bộ Ức Trai Thi Tập còn gom lại được 110 bài thơ Đường và vài trăm bài văn đủ loại của ông đầy cảm xúc tâm tư và có tính chất sử liệu rất cao, điển hình là bài Bình Ngô Đại Cáo (tất cả bằng chữ Nho, được người đời sau dịch ra Quốc ngữ), là một tác phẩm được xem là “thiên cổ hùng văn” và được xem như bản tuyên ngôn lần thứ hai của dân tộc2. Năm 1980 nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của ông, Nguyễn Trãi đã được Unesco chính thức công nhận là nhà quân sự lỗi lạc, nhà chính trị thiên tài và nhà văn hóa xuất sắc.
Nguyên nhân đưa ông đến với Phật Thiền
Có thể khẳng định rằng, trước thời đại Nguyễn Trãi khoảng 400 năm thì Phật giáo phát triển rất mạnh và trở thành quốc giáo, nhưng đến thế kỷ XIV – XV trở đi, Phật giáo không còn chỗ đứng nữa mà thay vào đó là Nho giáo. Sự ảnh hưởng của Nho giáo bao trùm lên cả thời đại. Tuy nhiên, đã có những nhà Nho thuần túy thường giao du với Phật giáo như Phạm Nhân Khanh, thường giao du với Lãm Sơn Quốc sư của Thiền phái Trúc Lâm, Lương Thế Vinh viết tựa đề cho Nguyễn Trãi, sinh ra và lớn lên trong một gia đình Nho giáo, bản thân ông là một nhà Nho hành đạo một cách tích cực, nên ông đã lấy đạo Nho làm chuẩn mực cho cuộc đời.
“Nẻo nay cũng một đường
Đây xong xóc nẻo tam cương
Đạo này để trong trời đất
Nghĩa ấy bên chung đá vàng”.
Tuy nhiên, trước hiện thực của cuộc đời và lòng người đen tối, đầy chông gai và hiểm hóc, trong nỗi buồn đau cho thế sự, Nguyễn Trãi lại tìm đến với Phật giáo tìm đến với Thiền, ông thích sống một mình lặng lẽ nơi Côn Sơn xây đắp nên những giấc mơ đẹp cho tâm hồn mình, tâm hồn con người cả một thời đại. Như đã nói ở phần tác giả thì Nguyễn Trãi là con cháu đời Trần (cháu ngoại của Trần Nguyên Đán), ông là người thường gắn bó với mảnh đất Côn Sơn nơi quê ngoại, là nơi mà ông đã từng sống ẩn dật vào những năm cuối đời. Hơn nữa, đây là trung tâm thiền học của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, nơi hội tụ nhiều danh Tăng nổi tiếng, chính Tam tổ Huyền Quang thị tịch tại nơi này. Mặc dù là một nhà Nho hành đạo nhưng ông sống như là một Phật tử thuần thành, thường đến các chùa như chùa Đề Đông (Đề Đông sơn tự), đi chùa trên núi (Du sơn tự), chùa Hoa Yên (Hoa Yên tự), chính nơi đây Trúc Lâm đệ Nhất tổ Trần Nhân Tông thờ Phật, chùa Nam Hoa ở Tào Khê, là trung tâm thiền học của Lục Tổ Huệ Năng (vị tổ thứ sáu của thiền tông Trung Hoa), mỗi mỗi nơi Nguyễn Trãi có nhiều xúc động và tạo nên một kiệt tác văn học trong Phật giáo.
“Vạn lý Nam lai sơn thủy viễn
Nhất sinh năng kỷ quá Tào Khê”
(Muôn dặm từ Nam non nước thẳm
Một đời mấy bận tới Tào Khê).
Ông cũng không hề giấu giếm sự thán phục của mình trước những gì mà Phật giáo còn lưu lại
Thần tích phi lai kỷ bách xuân,
Bảo Lâm hương hỏa khế tiền nhân.
Hàng long phục hổ cơ hà diệu,
Vô thụ phi đài ngữ nhược tân.
Điện trắc khởi lâu tàng Phật bát,
Khám trung di tích thuế chân thân.
Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy,
Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần.
(Gậy thần dạo đến mấy trăm xuân,
Hương khói Bảo Lâm hợp tiền nhân.
Rồng xuống hổ quỳ mầu nhiệm quá,
Không cây, không đế tiếng vừa vang.
Dựng lầu bên điện thờ bát Phật,
Gìn giữ trong hòm giải thoát thân.
Trước ngõ một dòng Tào Khê chảy,
Đời đời tẩy sạch bụi nhân gian.)
Đó là sự thán phục của ông đối với sự mầu nhiệm trong Phật giáo. Không dừng lại ở đó, ông xúc động với Lục Tổ, ông đã dùng ý thơ của Lục Tổ “Bồ đề bổn vô thụ/ Minh cảnh diệc phi đài” để viết cho ý thơ của mình “vô thụ phi đài, ngữ nhược tân”. Không những chỉ giao du với chùa chiền mà ông đã từng sống từng giao du, học hỏi chia sẻ buồn vui với sư Tăng, đặc biệt là từng sống với thiền sư Đạo Khiêm hơn mười năm. Cho nên, khi tiễn Thiền Sư Đạo Khiêm về núi ông có bài thơ tiễn biệt “Tống tăng Đạo Khiêm quy sơn”. Có thể nói rằng không chỉ hoàn cảnh của cuộc đời đưa đẩy ông đến với Phật giáo, mà còn có những bức tranh thiên thơ mộng đã tạo cho ông những cảm nhận sâu sắc về cuộc đời cũng như vẽ lên được một con người nội tại như ông. Như vậy, tư tưởng nào trong Phật giáo đã tạo ra cho ông một nguồn cảm hứng sâu sắc nhất về cuộc đời và con người. Một số tư tưởng tạo ra nguồn cảm hứng trong thơ Nguyễn Trãi như tư tưởng “sắc – không”, “vô ngôn” trong Bát Nhã Tâm Kinh, tư tưởng “vô tướng – vô trú – vô niệm” trong kinh Kim Cương và Pháp Bảo Đàn kinh.
Cảm hứng hứng Phật – Thiền
+ Cảm hứng về Vô thường
Trong thơ Nguyễn Trãi cảm hứng về vô thường được bộc lộ mạnh mẽ từ thiên nhiên gợi cảm cộng với tâm hồn thi sĩ đó là cái đẹp ấy được tạo dựng bởi cái mơ hồ giữa Thực và Hư, giữa Sắc và Không, giữa Hữu và Vô, giữa Động và Tĩnh. Thật vậy, chính cuộc đời của mình cũng như chính xã hội ông đang sống đã cho ông một cái nhìn sâu sắc. Ở đó không chỉ là kiếp người mà còn có cả trong thiên nhiên trong vũ trụ vạn vật cũng đều vô thường. Trong bài Hoa Mộc Cận Nguyễn Trãi đã nói. Đó cũng chính là sự vô thường của sự vật
“Ánh nước in hoa một đóa hồng
Vết nhơ chẳng bén, Bụt làm lòng
Chiều mai nở chiều hôm rụng
Sự lạ cho hay tuyệt sắc không”.
Mộc Cận tức là bông hoa thường được gọi là “râm bụt”, nhưng tên chính thì là “bông bụt” hay “hoa dâm bụt”. Trong thời Nguyễn Trãi, người ta hay gọi Đức Phật là Bụt, ở Cổ Ấn ngữ Buddha mà ra, vì nước ta đón nhận đạo Phật trực tiếp từ Ấn Độ sang. Bài thơ có bốn câu, cấu tạo vô cùng tinh vi, ba câu đầu tả về một bông hoa bụt theo lẽ thường, mới đọc ta cũng cảm nhận được sự ngắn ngủi của một bông hoa. Sự vô thường trong Phật giáo sinh ra tất phải chết đi, đó là một trong bốn tướng của sinh lão bệnh tử (sinh – già – bệnh – chết) là bốn sự khổ đau đầu tiên trong Phật giáo, thành trụ hoại không (sinh ra, tồn tại, biến đổi, hoại diệt) đó là quy luật của toàn thể vũ trụ. Ở đây, chỉ xét về đóa hoa bông bụt, một đóa hoa được gói gọn trong một nửa ngày, đó là thời gian thoáng qua “chiều mai nở chiều hôm rụng” (sớm nở tối tàn). Đó là hình ảnh của sự vô thường đến rồi đi, có rồi không, cũng có nghĩa là sinh ra tất phải có tử. Tuy nhiên, đối với Phật giáo sự vô thường được gói gọn trong một hơi thở, một sát na mà Tổ Quy Sơn đã nói “vô thường lão bệnh, bất dữ nhân kỳ, triêu tồn tịch vong sát-na dị thế, thí như xuân sương, hiểu lộ, thúc hốt tức vô; ngạn thọ tĩnh đằng, khởi năng trường cửu” (vô thường già bệnh không hẹn với ai, sớm còn tối mất trong một sát na là đã qua đời khác. Khác nào như mùa xuân móc sáng sớm,chốc lát đã không; như cây bên bờ dây trong giếng, đâu được lâu bền).
Đến đây ta lại nhớ bài thơ nổi tiếng của Thiền sư Mãn Giác:
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai3
(Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu bạc đến rồi).
Đó là hình ảnh sự vô thường của thời gian, không gian, của sự vật hiện tượng, của con người, hình tượng khai – lạc, khứ – đáo, thì ngoài sự ám chỉ về vô thường của một kiếp sống, bài thơ còn nói lên vòng tuần hoàn luân hồi mãi không dứt của kiếp nhân sinh. Như vậy, có thể nói rằng từ trong cuộc sống khó khăn, gian khổ, đầy chông gai và cũng như từ những mối quan hệ sâu sắc với Phật giáo, ông đã ngộ ra chân lý của cuộc đời là đau khổ, sự tồn tại của con người trên thế gian cũng có giới hạn, không phải vĩnh hằng như chúng ta mong muốn, trẻ đến một lúc nào đó cũng trải qua giai đoạn già yếu, rồi bệnh chết, đó là nói hết một giai đoạn của con người, chớ ít có người sống trọn vẹn của vòng luân chuyển này. Như vậy đó là sự giả tạm của một kiếp sống, rồi con người ông cũng không nằm ngoài quy luật ấy:
Vừa sáu mươi dư đã chín thu,
Lưng gầy da sĩ tướng lù khù.
Nên:
“Tưởng thân hư ảo nổi bằng bèo
Chí cũ công danh vuỗng lỡ keo.”
Còn Thiền sư Vạn Hạnh thì bảo:
“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.”
(Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời
Sá chi suy thịnh cuộc đời
Thịnh suy như giọt sương rơi đầu cành).
Đời sống con người rất là ngắn ngủi, giống như tia chớp thoáng qua một chút không còn. Cây cối mùa xuân thì tươi tốt, mùa thu lại tàn tạ, não nùng, cho nên trong sự sống đã có cái chết. Chính vì thế, ông đã có một sự tỉnh ngộ về cuộc đời, về công danh sự nghiệp đều là hư ảo:
Cuộc đời một giấc mộng kê thôi
Tỉnh lại muôn vàn thấy hão rồi
Hay
Có thân thì cóc khá làm sao.
Lững thững công hư tuổi tác nào.
Người ảo hóa khoe thân hóa ảo,
Thuở chiêm bao thốt sự chiêm bao.
Chỉ có:
Nước mấy trăm thu còn vậy,
Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn này.
Cũng chính từ sự vô thường này mà Nguyễn Trãi muốn nói lên một cái gì đó gọi là tồn tại mãi mãi không bao giờ mất đi cũng không bao giờ hủy hoại, đó là nguồn cảm hứng mới tạo nên cái thân của thơ ông cũng như con người.
(Còn tiếp)
An Nhiên (ĐSHĐ-014)
- PGS, Tiến sĩ Trần Nguyên Việt “Về quyết định của Nguyễn Trãi trong quan hệ thiền Phật”, httb// www.songdaotrongdoi.vn…/, Theo vientriethoc.com.
- Nhiều tác giả, Nguyễn Trãi Khí Phách và Tinh Hoa của Dân Tộc, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1980,tr.176.
- Hội Nghiên Cứu và Giảng Dạy Văn Học, Bình Luận Văn Học niên giám 2008, Nxb Văn Hóa Sài Gòn,tr.45.