Trước khi Đức Phật nhập Niết bàn, Ngài đã để lại di ngôn căn dặn các đệ tử phải “lấy giới luật làm Thầy”. Giới luật từ kim khẩu Đức Phật thuyết, do đó tôn trọng giới luật là tôn trọng Phật. Vì thế trải qua gần ba nghìn năm, thời kỳ nào những bậc thạch trụ các chốn tùng lâm đều tôn kính di phong lấy Giới làm căn bản trên đường lối tu hành, vâng giữ Luật làm khuôn mẫu quy củ cho thiền gia. Ân đức của các Ngài luôn là tấm gương tỏa sáng cho hậu nhân tiếp nối và phát huy những giá trị truyền thống Phật giáo, mang đậm tính nhân văn của từng vùng miền, nhất là những vùng đất địa linh nhân kiệt như Thủ đô Hà Nội.
1. Sự thiết yếu của giới luật
Thế giáo lấy lễ nghi làm trước, pháp lớn xuất thế lấy giới luật làm nền tảng: “Không lễ nghi không thành hiền trí, không giới luật không do đâu chứng quả Bồ đề” hay “Giới là thuyền bè đưa về đạo quả, là cội gốc của tất cả các pháp lành”. Do đó, cốt yếu của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật. Nên bất luận tại gia hay xuất gia bước vào cửa Phật, thì điều quan trọng nhất là phải Quy y, thụ giới. Mục đích của thụ giới là học giới và trì giới. Nếu không trì giới cũng như đọc tên trăm món ăn mà không có lợi ích gì cho sự đói bụng. Đức Phật dạy: “Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành”. Chính bởi mọi người đều sẵn đủ tính Phật, nhưng phải do trì giới mới tỏ ngộ. Cho nên là đệ tử Phật không gì quan trọng hơn học và thực hành giới luật.
Trong 12 năm đầu sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài chưa chế giới, vì thời kỳ này các đệ tử đều là những bậc Thiện lai tỷ khiêu xuất gia, căn khí sâu dầy chỉ nghe khai ngộ liền chứng Thánh quả. Mười hai năm sau, đệ tử đông nhiều, phát sinh pháp hữu lậu, mới là nhân duyên để Đức Phật kết giới. Cũng vì chúng sinh căn tính sai biệt, nên giới luật Đức Phật chế có thứ lớp khác nhau. Hòa thượng Chơn Thiện có viết trong tạp chí Liễu Quán như sau: “Bàn tay có năm ngón không đều nhau, ở các vị trí khác nhau và có chức năng khác nhau. Ý nghĩa bình đẳng giữa các ngón tay là giữ đúng vị trí và chức năng tự nhiên của mỗi ngón tay.”1 Vì thế, tạng luật dần dần hình thành để các đệ tử Phật nương theo tu tập đoạn trừ các tác nhân đọa lạc.
Điều kỳ diệu ở giáo pháp của Đức Phật chính là tính toàn hảo và bình đẳng. Dù là xuất gia hay tại gia, đều có thể tìm thấy con đường tu tập dẫn đến sự giác ngộ và giải thoát như nhau, chỉ cần có lòng chân thành và nỗ lực đúng đắn. Trong phạm vi bài viết, bút giả chỉ xin trình bày sơ lược của hai tụ giới thiết yếu, đại diện cho đệ tử xuất gia và tại gia của Đức Phật.
1.1. Ngũ giới
Ngũ giới chính là Nhân thừa Phật giáo, Đức Phật nhằm giáo dục xây dựng đời sống xã hội nhân văn. Nên Ngũ giới là căn bản đạo đức làm người. Ý nghĩa sâu xa của Ngũ giới là nhằm chuyển hóa lối sống ích kỷ, bản năng ham muốn vô độ, không để mất đi chính nhân làm người trong kiếp sau. Bởi thân người khó được mà lại có giá trị như một viên ngọc quý. Chỉ có ở thân người mới có khả năng, trí tuệ thực hành giáo lý, để tạo cảnh giới Chính báo, Y báo an lành trong tương lai. Như giữ giới không sát sinh mà tất cả chúng sinh không sợ bị giết hại. Trì giới không trộm cắp, mọi người bên cạnh sẽ không lo sợ bị mất của cải. Trì giới không vọng ngữ mọi người sẽ không sợ bị lừa gạt hoang mang.
Hiện nay trên các trang mạng xã hội có không ít thông tin thật giả khó minh định, làm đảo lộn đời sống, sự tu hành của nhiều người, cũng ảnh hưởng đến trật tự xã hội. Vì thế, chúng ta cần tìm hiểu kỹ một chút về giới Vọng ngữ là giới trọng thứ tư, để hiểu và thực hành cho đúng trong luật Đức Phật dạy, đem lại lợi ích cho mình và người. Vọng ngữ có hai: Là đại vọng ngữ và tiểu vọng ngữ.
Thứ nhất là đại vọng ngữ: Là “Phàm phu tự xưng chứng Thánh, vọng nói đã được cảnh giới thiền định. Hoặc nói thấy Phật, thấy thiên, long, quỷ thần đến cúng dàng. Trong tâm tà trược ngoài hiện tinh tiến, khiến mọi người cung kính. Phạm đại vọng ngữ tội này đọa địa ngục A tỳ. Phật dạy: “Thà ăn tro than, dao bén mổ bụng chớ vì danh lợi mà nói càn chứng Thánh.”2 “Các cách vọng ngữ là tự vọng ngữ, bảo người vọng ngữ, sai sử vọng ngữ, viết thành văn bản vọng ngữ, Hễ có tâm dối gạt người, bất luận dùng phương pháp nào khiến cho người bị dối gạt hiểu được. Cố ý tâng bốc lẫn nhau, để mong được người cung kính cúng dàng mà thật chẳng phải thánh nhân, dù đạt được mục đích hay không cũng là tội đại vọng ngữ.”3
Thứ hai là tiểu vọng ngữ: Các phương cách của tiểu vọng ngữ cũng giống như đại vọng ngữ. Nhưng không biểu hiện mình là Thượng nhân, mà là lời nói và các cách thể hiện trong đời sống thường nhật.
Tiểu vọng ngữ có năm tướng:
(1) Nói dối: Lời nói và tâm biết trái nhau, không chân thật. Không biết nói biết, biết nói không biết; không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, không nghe nói nghe… Trước mặt khen phải, sau lưng chê quấy. Cũng có người tuy nói thật nhưng trước mặt đem công đức ra khen, sau lưng bới chuyện xấu để chê. Đều là không có tâm chân thật.
(2) Thêu dệt: Trong Giới luật học cương yếu của Hòa thượng Thánh Nghiêm viết: Ỷ ngữ là những lời nói trau chuốt, lời ca tình tứ, văn chương trữ tình, chuyện tiếu lâm, nói chuyện vô bổ, lời chẳng đúng nghĩa khiến mất chính niệm, sinh ra ba độc tham, sân, si”4.
Nói thêu dệt là những lời đẹp đẽ hoa lệ nhưng vô nghĩa không thật “Những lời bàn tán phù phiếm vô nghĩa, buôn chuyện đủ điều, thích gì nói gì thì nói, cách nói cường điệu bất chấp là thật hay giả, không có lợi ích cho việc tu tâm dưỡng tính. Có thể khiến mọi người tạm thời tin tưởng sùng bái.
(3) Ác khẩu: Là những lời nói ra từ tâm sân hận, sỉ nhục mắng nhiếc người, khiến người khác đau đớn, mắng thẳng vào mặt người khác khiến họ bị tổn thương, hay mất danh dự trước mọi người.
(4) Hai lưỡi: Tới đây nói kia, tới kia nói đây. Xúi giục gây chia rẽ bạn bè, chia lìa cha con mất ân nghĩa, có thể dẫn đến phá hoại sự hòa hợp giữa người này, người kia, gây thảm họa khôn lường. Nếu một người luôn chính trực ngay thẳng từ trong lời nói và việc làm của mình, không lợi dụng lời nói của mình để làm tổn hại đến thanh danh của người khác thì đương nhiên cũng không bị người khác làm tổn thương.
(5) Ngoài ra còn những trường hợp cũng thuộc về tiểu vọng ngữ: Không luận người kia có tội hay không tội, cứ đem tâm ác làm chứng rằng có, thời mình mắc tội. Nghe tội lỗi người như nghe tên cha mẹ. Tai nghe thì được nhưng miệng đừng nói ra. Luận bàn tốt xấu của người không phải là chỗ làm của Phật tử.
Ngôn ngữ là cầu nối giao tiếp giữa các cá nhân, để đạt hiệu quả giao tiếp thì đôi bên cần nên tự chủ tôn trọng lẫn nhau. Những nghệ thuật nói đẹp, nói hay và tao nhã có rất nhiều trong Đạo Phật. Ví dụ: Khi Đức Phật gọi bất cứ ai Ngài đều dùng từ “thiện nam tử hay thiện nữ nhân”. Chỉ lỗi cho đệ tử Ngài cũng dùng những từ nhẹ nhàng nhưng sâu sắc như “không biết tàm quý” hay “không thể làm người bất nhân”. Những lời răn nhắc của Đức Phật chúng ta cần học tập, để chuyển hóa dần những ác báo, thu được nhiều phúc báo từ lời hay ý đẹp của mình.
1.2. Thanh văn giới
Giới Thanh văn: Là giới dành cho các đệ tử Phật xuất gia, có chí nguyện một đời liễu sinh thoát tử. Trong 10 lực của Đức Phật có lực thứ hai là “Tri tam thế nghiệp báo tri lực” nghĩa là Ngài thấu suốt gốc ngọn nhân quả, nghiệp báo của chúng sinh xuyên suốt ba đời. Với mắt tuệ thấu suốt tiến trình nhân quả nên Ngài đã chế Luật tạng giúp các đệ tử chấm dứt được những nhân đọa lạc. Do đó tất cả các tội trọng, những hành động bất tịnh của thân, khẩu, ý khiến đệ tử Phật không thể tu tập đạt đến giải thoát giác ngộ, người phạm tội đều phải “Bất cộng trụ”. Để không ảnh hưởng đến đời sống phạm hạnh của Tăng già và làm giảm giá trị giải thoát của Luật tạng. Và tất cả những uy nghi, tế hạnh, hành động, lời nói, tiếng cười làm động loạn người; cho đến từng bước chân đi, từ cái nhìn, cách đắp mặc y áo, những bữa ăn không có chính niệm, cảm quả báo hữu lậu trong sinh tử, Đức Phật đều cấm chế. Nhằm đưa đời sống của các đệ tử xuất gia “nhất nhất y ly”, không vướng bận, một bề tinh tiến trên con đường giải thoát.
Giới thanh văn còn là gốc rễ căn bản để thành tựu nên danh tính, đạo hạnh của một vị Tăng. Có thụ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni mới được đứng trong hàng ngũ chúng trung tôn, Tăng bảo lại là thể của Tam bảo. Đệ tử xuất gia từ khi mới tu đã phải học uy nghi, nề nếp thiền gia để mỗi hành động, lời nói trong khuôn mẫu giới luật, lâu dần sẽ thuần thục, nhậm vận tự nhiên. Từ đó thâm nhập vào tâm, bủa khắp tứ chi, hiển bày khi động tĩnh, đem lại từ trường mát mẻ cho chúng sinh. Khiến người tin ưa quy kính Tam bảo. Cho nên, giới luật là cội gốc để đạt đến sự giải thoát giác ngộ, cũng chính là Tỳ ni căn bản làm cho chính pháp cửu trụ thế gian. Như trong Luật tạng nói: Chư Phật quá khứ đã tập hợp giới luật để giảng dạy đệ tử, nhờ thế mà chính pháp được trụ thế. Đức Bản Sư cũng chế giới luật để thâu nhiếp đệ tử, ví như các loại hoa đủ hương sắc, nếu lấy chỉ xâu thành chuỗi, hoa sẽ không bị gió thổi bay tán bốn phương, mà trở thành một tràng hoa trang sức. Lại như các viên ngọc quý đủ các màu, xâu lại sẽ thành một chuỗi anh lạc. Cũng vậy, đệ tử Phật trì giới, là lấy giới làm chỉ, xâu các thiện pháp để trang sức tự thân, không để gió phiền não thổi bay tán bốn phương, nhờ thế mà chính pháp thường còn. Như trong luật Thiện kiến quyển 16 viết: “Làm thế nào để Phật pháp lâu bền? Một là tự thân thực hành Phật pháp, hai là có khả năng nói pháp cho người hiểu. Nhờ hiểu pháp mà họ giữ giới với tâm chân chính. Nhân giới vào định, nhân định được đạo quả, nên gọi là khiến cho chính pháp lâu bền”.
Như thế Luật tạng là sự thiết yếu trên con đường tu tập, Đức Phật chế định mỗi giới đều có nguyên do, cũng chính bởi lòng từ bi của Đức Phật muốn các đệ tử không gieo nhân đọa lạc chứ không phải những giáo điều cấm kỵ. “Phật chế định giới luật không phải là để bó buộc đệ tử mình, mà chính là con đường giải thoát của Phật tử và cũng chính là phương thuốc ngăn ngừa sự hư đốn của Tăng đoàn. Nếu Phật tử không có giới làm tiêu chuẩn phép tắc cho sinh hoạt thì liễu sinh thoát tử không phải dễ. Tăng đoàn như không có giới luật làm cương lĩnh thống nhiếp giáo hóa thì tiền đồ của Phật giáo không những tan rã mà còn đen tối nữa”5.
Chính vì vậy, từ khi Đức Phật chế giới ở Lộc uyển đến nay trải qua gần ba nghìn năm, chư Tổ sư kế đăng truyền trì đều nghiêm cẩn trong việc học và hành luật, để lại dấu ấn lợi ích nhiều thế hệ sau. Nhân dịp Ni giới Thủ đô tổ chức lễ kỷ niệm ngày viên tịch của Thánh Tổ Đại Ái Đạo, bút giả xin được mạo muội viết đôi điều về hai cụ tổ Ni gần gũi nhất, ghi lại dấu ấn quãng đời thừa hành của quý ngài đã góp phần nào trong việc thành tựu và phát triển của Ni giới Thủ đô.
2. Sự thừa hành của chư Tôn đức Ni
2.1. Ni trưởng trụ trì chùa Nga My – Hoàng Mai – Hà Nội
Ni trưởng thượng Đàm hạ Hảo, Đạo hiệu Bảo Châu. Ngài sinh năm 1929 tại Hiệp Thuận – Phúc Thọ – Hà Nội. Năm 1943, Ni trưởng xuất tu học với sư tổ thượng Đàm hạ Tín tại chùa Nga My – Hoàng Mai, đến năm 1948 thụ giới Tỳ kheo Ni tại giới đàn Linh Quang – Bà Đá. Ni trưởng được nghiệp sư trực tiếp giáo dưỡng và cho đi tham học chư Tôn đức Tăng, Ni danh tiếng. Năm 1969, Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam, khai giảng trường tu học Phật pháp Trung ương tại chùa Quảng Bá dưới sự giảng dạy của Hòa thượng đệ nhất Pháp chủ và nhiều Hòa thượng danh tiếng. Ni trưởng đã tham gia với tinh thần hiếu học và tâm nguyện tự lợi, lợi tha, thấu đạt giáo lý trau dồi tuệ đức, vì nhận thức sâu sắc không chỉ để tu học cho riêng mình mà còn đem khả năng tu học của mình để lợi ích cho hậu thế. Khi tốt nghiệp có đủ năng lực trí tuệ, Ni trưởng đã dấn thân trên con đường phụng sự Đạo pháp – Dân tộc, kham lãnh nhiều chức vụ ngoài xã hội cũng như Giáo hội. Ủy viên hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN); chứng minh Phân ban Ni giới TWGHPGVN; Phó trưởng Ban Trị sự GHPGVN Thành phố Hà Nội, Hiệu phó kiêm giảng sư trường Trung cấp Phật học Hà Nội…
Khi làm Ủy viên Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hà Nội, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Ni trưởng luôn luôn giữ gìn đạo hạnh uy nghi, nghiêm cẩn trong từng cử chỉ, lời nói “hiển đạo hạnh muôn người kính mến”, khiến nhiều người tin kính phát tâm quy y tam bảo.
Nghĩ đến tiền đồ Phật pháp và thế hệ kế thừa, Ni trưởng luôn trăn trở quan tâm đến sự nghiệp giáo dục đạo đức và trí tuệ cho ni chúng, để đào tạo ra những lớp ni trẻ tài đức phụng sự cho chính pháp. Ni trưởng đã đảm nhiệm chức vụ hiệu phó kiêm giảng sư trường Trung cấp Phật học Hà Nội. Với phong thái uy nghiêm Ni trưởng đem hết tâm tư nhiệt huyết, cần mẫn, nghiêm răn những Ni sinh sơ thất uy nghi, trễ nải việc học và lưu tâm trưởng dưỡng những Ni sinh tài năng. Chuyên tâm giảng dạy luật Sa di, Thức xoa ma na… làm hành trang nghiêm thân cho nhiều lớp Ni trẻ, một niềm hun đúc cho sự nghiệp duy tuệ thị nghiệp cho thế hệ Ni giới hậu lai.
Trong cương vị chứng minh phân ban Ni giới Trung ương, Phó trưởng Ban trị Phật giáo Thành phố Hà Nội, Thủ chúng Ni của Ni giới Hà Nội, Ni trưởng rất nhiều Phật sự nhưng vẫn dành nhiều thời gian quan tâm từng uy nghi tế hạnh và dõi theo sự hành trì của Ni chúng để răn nhắc sửa đổi, những mong học Ni sau này là pháp khí chốn tùng lâm, làm gương mẫu cho đời sau. Cũng là để, kế nối tông phong, đáp ơn Đại Ái Đạo Ni tổ, bằng cả thân giáo, khẩu giáo trong các khóa kết hạ an cư của hạ trường, Ni trưởng đã lên khóa lễ, cảnh sách đều đặn không bỏ sót một thời. Sáng lên đại trường thính pháp, chiều mở tiểu trường, dạy luật, đọc chữ, dịch nghĩa, bình văn, đem hết kinh nghiệm tu học truyền trao cho hậu thế. Một đời mong muốn Ni chúng tăng trưởng trí tuệ, đạo hạnh vun bồi làm mô phạm cho các thế hệ mai sau, suốt bao năm tháng không từ lao nhọc trên con đường Đạo nghiệp dài xa tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức. Với sự nghiêm huấn của Ni trưởng nên Ni chúng ở học đường, cũng như hạ trường đều hòa hợp sống trong khuôn khổ Lục hòa.
Ni trưởng được thỉnh làm giới sư trong các giới đàn của Thủ đô và nhiều tỉnh lân cận.
Ngoài việc giáo dục Ni giới, Ni trưởng đã truyền dạy Tam quy, ngũ giới cho hàng ngàn Phật tử tại gia, mở đạo tràng tổ chức cho Phật tử tu học tại chùa Nga My, trên tinh thần phụng sự đạo Pháp và phục vụ đân tộc.
Cảm nhận ân đức giáo dục vị tha sâu sắc hơn 70 năm cống hiến cho sự nghiệp duy trì mạng mạch Ái đạo gia phong, đạo pháp công hạnh của Ni trưởng là biểu pháp luôn tỏa sáng, xứng đáng là bậc mô phạm cho ni giới. Ni trưởng đã đóng góp nhiều công sức to lớn trong sự nghiệp kế thừa và phát triển của Ni giới Thủ đô. Công hạnh và Đạo nghiệp đã viên tròn Ni trưởng đã nhẹ bước nhàn du cao đăng Phật quốc.
2.2. Sư Cụ trụ trì chùa Hưng Ký – Hai Bà Trưng – Hà Nội
Sư Cụ thượng Đàm hạ Minh, Đạo hiệu Chí Thiện Giác, sinh năm 1904, tại làng Khương Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Xin cầu xuất gia với Cụ tổ chùa Thiện Khánh, Mai Động, Đạo hiệu Thượng Đàm hạ Nghiêm, vâng giữ lời giáo huấn của Tổ nghe lời chỉ dạy của Tổ, làm đệ tử cụ trưởng thượng Đàm hạ Y, thụ giới Sa di, Thanh Văn tại chốn tổ Đào Xuyên. An cư nơi hạ trường Linh Quang, Bà Đá, mượn Vũ Hưng thiền am làm nơi thanh tu, sau trụ trì chùa Hưng Ký (1954 -1994).
Hình ảnh Người trong tâm trí con là bậc thầy hiền hòa, tần tiệm, khiêm cung bình dị, thúc liễm thân tâm, cẩn trọng từng uy nghi tế hạnh. Chư Tăng Ni đến chùa dù lớn hay nhỏ đều đứng chắp tay cung kính thưa bạch nên chư Tăng Ni xa gần đều quý mến. Lúc còn sinh thời Hòa thượng đệ nhị Pháp chủ cũng thường xuyên thăm hỏi, chỉ dạy mọi điều về việc Phật sự, cũng như sửa sang chùa cảnh rất tường tận. Trong cuộc sống hằng ngày nhất nhất xả ly, năm dục không chút chướng ngại con đường giải thoát. Với sự quyết tâm cắt ái ly thân, mặc dù nhà ngay Khương Thượng nhưng chưa bao giờ thấy người nhà đến chùa làm vướng bận sự tu. Suốt những tháng năm thị giả bên thầy chưa một lần thầy dùng đến tiền mua cho mình một vật gì dù nhỏ nhất. Ngày ăn một bữa, bộ quần áo mặc mấy chục năm, khi giặt không dám mạnh tay vì sợ lỡ làm rách. Tiết kiệm từng giọt nước, cọng rau, không bỏ đi một vật gì còn có thể dùng được. Thường ủng hộ các hộ nghèo cũng như các phong trào xóa đói giảm nghèo của Mặt trận Tổ quốc, Hội Chữ thập đỏ của địa phương.
Biết bao Phật tử thân cận nói, viết về thầy còn lưu lại trong ký ức, trên từng trang giấy. Kiên trì trong đời sống phạm hạnh, vượt qua nhiều gian truân, chướng ngại. Khi còn trẻ, Chùa Hưng Ký do Hòa thượng Giải Ngạn trụ trì có hơn 100 Tăng Ni tu học, ngày ngày thầy chỉ lo cuốc đất làm ruộng phục vụ Tam bảo. Đến năm 1954, Tăng Ni giải tán chỉ còn lại mình thầy, chùa chiền hiu quạnh, đời sống nhân dân khó khăn, nhà tổ, nhà tăng, nhà nước dùng làm trường học cấp I cho các cháu học sinh, và kho chứa bảo vật của Bảo tàng Hà Nội. Nhân dân đi miền núi về không có chỗ nương thân, đã vào ở hết trong hiên chùa, nhà bia. Thầy không còn chỗ ở phải ở ngay trên Tam bảo sau lưng Phật, hàng ngày nấu ăn ngay ở cửa ra vào, không có chỗ đi xuất sử. Cuộc sống, sự tu gặp khó khăn về mọi mặt. Vốn sẵn bản tính nhẫn nại, cần lao, ngoài việc siêng năng thời khóa, phụng sự Tam bảo, thầy lại tham gia tổ đan len để có kinh phí đảm bảo sinh hoạt không làm phiền đàn na tín thí. Nhờ Phật Tổ gia hộ hơn mười năm sau bên văn hóa thấy cảnh thầy sinh hoạt quá vất vả mới trả lại hai gian nhà tăng, thầy mới có nơi vừa ở, tiếp Phật tử. Chúng con cũng không có nơi ở ổn định, tối thì mở tấm phản ra để nghỉ, ngày gấp lên để lấy đường đi lại. Mãi đến năm 1990 nhà nước trả lại nhà tổ, nhà tăng, nhà mẫu và thầy tự di dời một số hộ dân ở nhà tăng và hiên chùa ra ngoài nội tự. Thầy đã cùng Phật tử chắt chiu từng đồng để tu bổ, sửa sang tượng Phật, trên chùa sơn son thếp vàng, nhà tổ nhà mẫu được tu bổ, làm lại tượng pháp trang nghiêm, Phật tử đến chùa đều ca ngợi tán thán.
Tuổi mỗi ngày mỗi cao, chúng con lại quá non dại đã làm thầy lao nhọc bao lần. Với vóc dáng nhỏ bé, giọng nói nhẹ nhàng, chậm rãi, mang ý giáo sâu sắc, còn chưa phai nhạt trong con từ những ngày sơ cơ bước chân vào cửa đạo. Với tinh thần sáng suốt, trách nhiệm người thầy đã tận tình chỉ dạy chúng con, người tu phải luôn tu dưỡng đạo hạnh, sống tiết độ, lễ phép khiêm cung, chăm học, chăm tu để vun bồi lòng tin Tam bảo. Hạt thóc phải bóc lấy hạt gạo không được bỏ đi, từ giọt nước, cây kim, sợi chỉ đều là biết bao công sức của đàn na tín thí. Không thiểu dục tri túc và chăm chỉ tu học thì sau phải kéo cày đền nợ, cần phải “giữ gìn của Tam bảo như giữ tròng con mắt”, yêu tiếc của chùa sau này mới không bị thiếu thốn, sự tu hành mới không chướng ngại.
Mỗi khi chúng con có lỗi, Người nghiêm khắc trách phạt, nhưng đều xuất phát từ tấm lòng muốn thành tựu cho cho đệ tử. Lúc con giải đãi, Người thường bằng cả tấm lòng bao dung độ lượng dạy chúng con bằng những lời kệ, câu kinh đơn giản thực tế mà khiến chúng con khắc cốt ghi tâm:
“Sa bà duyên nghiệp sinh thành,
Trăm năm trụ thế việc làm không ngơi. Sắc thân khi đã hoại rồi,
Chân không thời lại phản hồi Chân không.”
(Ngày 10-2-Kỷ Tỵ)
Mặc dù thân mỏi nhọc, tuổi cao sức yếu nhưng Thầy vẫn luôn từ tốn chỉ dạy từng lời nói, từng chữ nho trong kinh Nhật tụng, những uy nghi cử chỉ, nề nếp, quy củ của thiền gia. Khi thỉnh chuông, gõ mõ làm sao cho lợi ích âm dương, tiếng chuông mõ âm vang ấm áp sẽ làm người nghe bớt đi những nỗi ưu phiền, trong cuộc sống bon chen vất vả chính là nhờ ở tâm người dụng chuông. Ngày ngày Thầy trì tụng kinh Kim Cương, Pháp Hoa, thường dạy con, phải tin sâu nhân quả, lòng tin thể hiện trong đời sống, bằng những lời nói, việc làm, không phải chỉ tin sáo rỗng. Kiên trì nhẫn nại trước mọi chướng duyên nghịch cảnh, như trong kinh Pháp Hoa Phật dạy: “Tứ Hành Xứ là đứng vững đất nhẫn nhục, dịu hòa và thuận thảo, tính không nóng nẩy, tâm không sợ sệt. Lại ở trong muôn vật mà lòng chẳng xao xuyến. Nhẫn là đệ nhất đạo, nhẫn là yên tĩnh, nhẫn là bậc Đại nhân”. Phải xả ly với tiền của, tiền là bạc nên không được tham đắm “Khi sinh không đưa gì đến, khi chết cũng không đem theo được gì. Lục căn không vướng lục trần, tâm hồn được giải thoát”.
Chùa đông Phật tử, ứng xử của con vụng dại nên con hay sinh phiền não, thầy thường dạy:
“Chớ trách ai đầy, chớ thở than, Tự mình gây nghiệp tự mình mang. Lòng phàm rửa sạch tiêu tai hoạ, Nhẹ bước qua sông tới Niết Bàn.”
(ngày 9-10-1991)
Chân dung thầy thể hiện phong cách thanh bần giản dị, ít nói, nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, tuy mềm yếu nhưng vững chãi kiên cường, từ bi nhẫn nại với nếp sống bình dị, giản đơn và tấm lòng bao dung ân cần, bất cứ gia đình nào dù gây khó khăn trở ngại việc chùa, hay những gia đình có hữu sự, Người đều đến trợ duyên sau đó khuyên họ niệm Phật, tránh ác làm lành. Nên trong thập niên 80 và đầu thập niên 90 mặc dù lúc đó người biết đến Đạo Phật còn ít nhưng chùa có gần nghìn Phật tử, ai cũng kính mến Thầy.
“Hà thành thiện tín thập phương, Bà con Phật tử tán dương đức Thầy. Xuất gia nhẫn nhục gắng công,Tu hành đạo đức tháng ngày trường trai. Đức nhẫn nhục, trí từ bi,Thành tâm hỷ xả sánh bì hiền nhân. Đời nay hiếm có an bần tỳ khiêu, Chùa men sứ chốn danh lam.
Hưng Ký Phạm Vũ người yêu cảnh thiền, Như thầy vẫn một tâm niềm,Giữ gìn thanh chất nghèo nàn chân tu. Lòng thành kính Phật vô biên,Trọng Tăng mến đức con nguyền noi theo. Nhân tu thầy mãi gắng gieo,Lối theo phạm hạnh, noi theo Tăng già. Chúng sinh tận độ hà sa,Hữu tình lợi lạc khắp hòa nhân gian.”
(Ngày 1-10-Kỷ Dậu, Phật tử Pháp danh Giác Ngộ – công nhân)
Thân tứ đại yếu dần theo năm tháng, nhưng tinh thần vẫn minh mẫn, Người đã viết lại di chúc: “Phật đã quá khứ rồi, toàn dân là Phật hiện tại và Phật vị lai của tôi. Khi tôi viên tịch xin đại chúng đừng phúng viếng trướng, hương, hoa vì là những thứ không cần thiết mà lãng phí. Còn tiền phúng viếng tặng người tàn tật ốm yếu, trẻ mồ côi không nơi nương tựa. Thế là các cụ các sư, thiện trí thức gần xa cùng toàn thể nhân dân đã cho con đầy đủ tư lương về nước Đức Phật A Di Đà ở Tây phương. Khi học thành tài rồi nguyện xin về cõi Sa bà cùng các cụ các sư làm việc tự lợi, lợi tha”. Thuận lý vô thường, chẳng rời chân tính, Thầy đã an nhiên rũ bỏ tấm thân ngũ uẩn, trở về cảnh chân không, tịch tĩnh thâu thần thị tịch, giờ Ngọ ngày 14-6-Giáp Tuất. Nếp sống hằng ngày vẫn toát ra nét bình dị, trong sáng với bộ quần áo vải thô bạc mầu đơn sơ mộc mạc về Tây.
Dù không khai tràng thuyết pháp nhưng thân giáo trong đời sống thường nhật của thầy là những bài học thiết thực, là gương sáng cho chúng con noi theo trên bước đường tự lợi lợi tha, tiến tu giải thoát. Ba mươi năm ôn lại những ân tình sâu nặng, như vừa mới ngày nào, không thể nói hết bằng lời. Đây chính là những hành trang cho chúng con suốt những năm qua và mãi mãi sau này. Với cả tấm lòng thành kính và tri ân sâu sắc con xin ghi lại vài dòng cảm xúc. Con vẫn biết trên mỗi bước đường chúng con tu, những Phật sự chúng con làm, vẫn luôn có sự thầm gia trì của Thầy.
Từ giới luật đến những bài học sống động nhưng lại thâm sâu kín đáo, có giá trị to lớn để lại cho hậu thế, tấm lòng lành thiện và đức độ cao cả của chư Tôn đức Ni đã lưu lại sâu rộng trong tâm trí hàng hậu học chúng con, như ngọn đèn sáng soi dẫn đường về nẻo Giác. Chư Tôn đức Ni luôn luôn là tấm gương để hậu học noi theo Ân đức và công hạnh của quý ngài không bao giờ phai nhạt.
3. Giá trị giáo dục nhân văn trong đương đại
Giới luật Phật giáo tuy nhiều nhưng không rời nguyên tắc cơ bản của ngũ giới. Không luận là giới của Phật tử xuất gia hay tại gia đều lấy ngũ giới làm trọng yếu. Nếu giữ ngũ giới được thanh tịnh thì các giới khác giữ cũng rất dễ dàng. Là những người Phật tử, kế tiếp các thế hệ Tôn đức tiền bối, nếu như mỗi chúng ta đều noi gương thầy tổ, giữ gìn giới luật thì cuộc sống sẽ bình ổn biết bao, nhất là trong thời hiện tại. Ví như giới vọng ngữ trình bầy ở phần trên, về giới này thời xưa vọng ngữ chỉ truyền trong phạm vi giới hạn, nên tầm ảnh hưởng không nhiều. Ngày nay chỉ cần vận dụng công nghệ thông tin hiện đại, thì vọng ngữ có sức mạnh ảnh hưởng đến mọi tầng lớp không có giới hạn về cả không gian và thời gian. Tuy người trí sẽ không bị lời đồn tác động, khi nghe người khác bàn tán chuyện đúng sai, họ sẽ không bị lay động cám dỗ. Trong kinh có dạy “Nếu một người luôn có được lòng tin vững chắc vào Tam bảo, vào bản thân, cũng như tha nhân thì đó là kiếp trước họ đã giữ cho khẩu nghiệp của mình được thanh tịnh, nên đến kiếp này họ mới không bị người hay hoàn cảnh nào làm ảnh hưởng dao động”6.
Nhưng không phải ai cũng có chính kiến để suy xét thực chất một vấn đề đúng sai cho thấu đáo mà đa phần chỉ theo cảm hứng, làm cho vấn đề rất bình thường lại trở lên nghiêm trọng gây thiệt hại, khổ đau cho bao nhiêu người. Nếu xét theo đúng giới luật từ kim khẩu Đức Phật dạy, thì người vọng ngữ dù bằng phương cách nào, cứ khiến mỗi một người hiểu sai sự thật thì người gây nhân sẽ phải chịu thêm một tội. Như thế dù không phải Đại vọng ngữ nhưng có ít nói thành nhiều; xúi giục gây kình; nói lệch lạc sự thật, dùng âm thanh, chữ viết để cường điệu sự thật… khiến mọi người tin cho là đúng, hoặc khiến mọi người động tâm, bất an mà tầm ảnh hưởng rộng lớn trên công nghệ thông tin cả thế giới đều biết; có khi còn lưu lại cho nhiều thế hệ sau. Như thế tính theo cấp số nhân thì không thể tính đếm, người gieo nhân có lẽ tội lớn hơn không biết gấp bao nhiêu nghìn lần tội trọng. Rồi còn gieo nhân cho những người tùy hỷ theo, những người vì việc này mà mất lòng tin Tam bảo, mất đi phúc điền tối thắng, cắt đứt con đường giải thoát của nhiều người. Còn nữa, theo trong luật Phật dạy, giới Vọng ngữ là tính giới không phải giá giới vì bản chất của nó là bất thiện. Nên dù là Phật tử hay không phải Phật tử đã làm đều có tội như nhau. Quy luật nhân quả là công bằng đã gieo nhân ắt có quả, như tâm lành hay dữ phát ra tiếng sẽ có âm thanh khiến người nghe mát mẻ hay khó chịu, thì sẽ sinh ra niệm tri ân hay oán hận. Nên đã gieo nhân thì nhậm vận sẽ có những quả tương ứng. Vì vậy mà giới điều này rất cần để mọi người cùng lưu tâm!
Chúng ta thấy được trí tuệ của Đức Phật là không thể nghĩ bàn. Tại sao ngài lại kết giới này là một trong bốn trọng của cả bẩy chúng đệ tử Phật, từ Ngũ giới, Bát quan trai giới, Bồ tát giới, cho đến giới xuất gia là Sa di, Thức xoa ma na và Thanh văn, chính là để ngăn ngừa những tai họa khôn lường này. Từ sâu trong tâm thức chúng ta luôn tri ân Đức Phật, với Nhất thiết chủng trí Ngài đã để lại Luật tạng làm khuôn vàng thước ngọc cho chúng ta không gieo nhân đọa lạc. Hơn nữa giới luật khiến mỗi người tin thích làm việc thiện, nói lời tốt đẹp và nghĩ điều lương thiện, dần dần sẽ hình thành cho mình một thói quen chân thật tốt đẹp, những tập khí xấu tự nhiên sẽ không phát sinh. Vì “Tất cả các pháp do nhân duyên sinh, tất cả các pháp do nhân duyên diệt”. Nếu ai cũng thông hiểu những điều này thì chắc chắn sẽ không còn có sự phê bình, công kích, chỉ trích nhau, tự đem lại họa hại cho mình cho người.
“Muốn biết nhân đời trước, Xem hưởng quả đời này. Muốn biết quả tương lai, Xét gieo nhân hiện tại”.
Chúng ta hiểu đơn giản là tất cả mọi điều diễn ra trên thế gian này đều dựa vào nhân và duyên mà có quả. Thấu hiểu về pháp nhân duyên, sẽ khiến mỗi người chúng ta thận trọng gieo nhân, rộng kết thiện duyên, tích cực tạo năng lượng tốt lành cho mình và mọi người xung quanh. Đức tin là điều rất quan trọng trong cuộc sống, có đức tin chúng ta mới bớt phiền não, vui vẻ bố thí, mới có thể từ bi hỉ xả, sám trừ tội lỗi. Một ý nghĩ xấu có thể hủy hoại danh dự cả một đời, một ý nghĩ tốt có thể tiêu trừ tội lỗi của cả một đời. Lời nói là công cụ quan trọng để thể hiện suy nghĩ và ý chí. Do đó chúng ta phải biết tận dụng nó, tu tập khẩu nghiệp tránh xa tội lỗi. Cân nhắc từng câu, từng chữ, xem chúng như ngọc vàng, là hương pháp bảo, những lời hay ý đẹp mang lại lợi ích cho người. Như thế là chúng ta biết tận dụng phúc báo của thân người một cách thiện xảo chân chính.
Vì vậy chúng ta cần phải trau dồi văn tuệ để có chính kiến, nhất là về giới luật. Luật tạng chính là chân lý nhân quả mà Đức Thế Tôn hiển thị lên thành sự tướng để cho các đệ tử dễ nhận biết và thực hành. Nên Luật tạng rất cần thiết gần gũi không phải giáo điều, xa rời thực tế. Như giới bất Vọng, khiến mỗi người khi nói năng biết kiềm chế không nói chuyện thao thao bất tuyệt vô bổ, không có chủ đề. Nhất là nên tránh xa những việc tung tin đồn nhảm hại mình hại người. Mà còn huân tập lòng từ bi, bằng sự ái ngữ mang lại sự hiểu biết, hy vọng, niềm vui, lợi ích cho mọi người. Nên trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thường xuyên niệm ân Đức Phật, khéo thuyết giảng kinh, gieo bày việc tốt, nói thật làm thật. Nói những lời mang lại lợi ích, những lời nhẹ nhàng an ủi thuyết phục sẽ khiến mọi người chấp nhận và tin phục, đồng thời ta cũng nhận được sự yêu mến của nhiều người. Chúng ta sẽ thu được lợi ích giống như Đức Phật dạy Long vương: Mọi lời nói ra có thể khiến cho công chúng tôn trọng, hoan hỷ và đạt được trí tuệ thù thắng.
Cũng chính vì thế mà đạo pháp có lúc thăng lúc trầm, nhưng chư tôn đức tiền bối luôn là những người thừa hành luật tạng, vận dụng vào cuộc sống đề cao lý tưởng nhập thế hành đạo, cũng có những ngài âm thầm lặng lẽ dùng thân giáo duy trì quy củ thiền gia, đem lại lợi ích cho mình và người. Đây chính là những tấm lòng vị tha phát huy Bồ tát hạnh trong đời thường mà mỗi chúng ta cần chiêm nghiệm. Không văn chương, chữ nghĩa phô bầy, nhưng trí đức và công hạnh cống hiến của quý Ni trưởng như một tấm gương tỏa sáng, đã góp phần không nhỏ cho sự nghiệp phát triển của Ni giới Thủ đô.
Giới luật Phật giáo là thành tựu những con người có nếp sống giải thoát, đem lại hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Nếp sống ấy đề cao con người, đưa con người vào vị trí tối thượng. Xác định con người có khả năng sống và tạo nên một nếp sống đạo đức tối thượng và hạnh phúc chân thật từ tự thân. Tâm niệm của của mỗi người khác nhau, ba nghiệp thân khẩu ý khác nhau nên tạo ra Y báo cũng khác nhau. Chỉ cần khéo léo kiểm soát tâm sẽ chuyển hóa được lối sống, đạo hạnh người đệ tử Phật đó mà dần thành. Từ xưa tới nay giáo dục trong các trường Phật học, cũng như theo truyền thống sơn môn, các chùa ít chúng, ở Thủ đô chư Tôn đức Ni đã cống hiến cho sự nghiệp phát triển của Ni giới. Sự thiết thực của giáo pháp đã được các ngài kết hợp khéo léo trong cuộc sống đem lại lợi ích nhân sinh, rèn luyện thanh lọc thân, khẩu, ý trong đời sống hằng ngày. Chính là từ những hành động lời nói, sự khiêm cung và ý nghĩ chân chính của chư Ni tạo nên nét đẹp văn hóa đặc thù của Phật giáo. Hòa nhập trong cuộc sống để học hỏi thuận duyên hay nghịch duyên nội tâm không dao động theo ngoại cảnh.
Ngày nay, trong nhịp sống hiện đại noi gương chư vị tiền bối chúng ta cần trau dồi Tam vô lậu học, cần kết hợp song song giữa trí tuệ và hạnh nguyện, giữa kiến thức và thực hành để nâng cao năng lực nội tâm, thanh tịnh ba nghiệp, giữ hạnh thanh cao, xả bỏ những thú vui thế gian. Phát huy đức tính của người nữ là kiên nhẫn chu đáo, ôn hòa dịu dàng và khiêm tốn, khéo léo sắp đặt cư xử hài hòa, tâm luôn quảng đại là cảnh giới an lạc cho những người xung quanh và tất cả chúng sinh.
Sự cung kính hoan hỉ lãnh thụ bát kính của Kiều Đàm Di Tổ, chính là lấy thân giáo phụng hành pháp sự, như tấm gương giáo dục lớn, còn mãi âm vang. Nếp sống, quy củ thiền gia của chư tiền bối Ni Hà Nội là sự giáo dục sinh động, làm hành trang cho Ni giới kế thừa và phát triển truyền thống tốt đẹp của tiền nhân, góp phần làm cho Tông phong vĩnh chấn, Tổ ấn trùng quang.
Ni sư, TS. Thích Từ Ân
- Thích Tinh Vân (2023), “Quản lý học Phật giáo I, II, III”, Nxb. Tôn giáo, TT phiên dịch tư liệu Phật giáo quốc tế, nhà sách Vĩnh Nghiêm.
- TKN Đàm Uyển (1996), “Sa-di-ni luật nghi”, Nxb. Tp.HCM. 4. Một số bài tham luận về Ni giới.
- TKN Đàm Uyển (1996), Sa-di-ni luật nghi, Nxb. Tp.HCM, tr.30.
- Thích Thánh Nghiêm, “Giới luật học cương yếu”, dịch giả Tuệ Đăng Nxb. Tp.HCM, năm 2000, tr. 25,26.
- Thích Thánh Nghiêm (2000), Giới luật học cương yếu, dịch giả Tuệ Đăng, Nxb. Tp.HCM, q1, tr.388.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- 1. Thích Thánh Nghiêm (2000), “Giới luật học cương yếu”, dịch giả Tuệ Đăng, Nxb. Tp.HCM.
- 2. Thích Tinh Vân (2023), “Quản lý học Phật giáo I, II, III”, Nxb. Tôn giáo, TT phiên dịch tư liệu Phật giáo quốc tế, nhà sách Vĩnh Nghiêm.
- 3. TKN Đàm Uyển (1996), “Sa-di-ni luật nghi”, Nxb. Tp.HCM. 4. Một số bài tham luận về Ni giới.
150