Không phải ngẫu nhiên các nhà nghiên cứu lịch sử phát biểu rằng: “Bình minh lịch sử dân tộc ta gắn liền Phật giáo”. Do đó, trong quá trình tiếp biến và hội nhập Phật giáo vào nước ta, có triết lý sống đạo đức người Việt đã thích hợp với giáo lý nhà Phật. Thế nên, có thể nói đạo đức Phật giáo Việt Nam được bắt nguồn, trước hết, từ những giáo lý cơ bản của Phật, được chính Đức Phật Thích Ca truyền giảng, sau ngày Phật thành đạo, và sau đó được kết tập lại trong kinh điển, và thứ hai là từ hoàn cảnh lịch sử của dân tộc Việt Nam. Chính hai cội nguồn đó đã tạo ra và phát triển những nét chung và đặc thù của truyền thống đạo đức Phật giáo Việt Nam, là một bộ phận cấu thành quan trọng của truyền thống văn hóa Việt Nam.
Chỉ thấy cội nguồn giáo lý, mà coi nhẹ cội nguồn dân tộc sẽ đánh mất tính sống động và sáng tạo của truyền thống đó. Nhưng nếu quá thiên về cội nguồn dân tộc mà quên mất cội nguồn giáo lý cũng không được, và sẽ đánh mất tính phổ biến, tính nhân bản sâu sắc của đạo đức Phật giáo, và sẽ biến đạo đức dân tộc thành một mớ quy tắc ứng xử tầm thường mang tính thực dụng mà thôi. Nghiên cứu truyền thống đạo đức Phật giáo Việt Nam, chúng ta sẽ coi trọng quân bình cả hai cội nguồn đó: cội nguồn giáo lý đạo Phật và cội nguồn dân tộc Việt Nam, với bối cảnh địa lý-lịch sử văn hóa đặc thù của nó.
Phật giáo đã tồn tại ở Việt Nam trên hai nghìn năm. Một thời gian khá dài để cho dân tộc Việt Nam, từ thế hệ này sang thế hệ khác có thể chắt lọc từ trong giáo lý đạo Phật, mọi yếu tố thích hợp nhất với điều kiện lịch sử–xã hội của dân tộc, đất nước, có khả năng giúp cho dân tộc ta, đất nước ta khẳng định sự tồn tại của mình như một dân tộc, một đất nước tự do, độc lập với tất cả mọi bản sắc văn hóa thích hợp, phóng khoáng không bài ngoại và càng không lệ thuộc ngoại. Đất nước ta không lớn, nhân dân ta không đông so với nước Trung Hoa khổng lồ, nằm sát biên giới nước ta. Trung Hoa lại là một nước có một nền văn hóa lâu đời, có khá nhiều cái hay có thể học.
Trước tình hình đó, những yếu tố đạo đức Phật giáo đề cao tính tự cường dân tộc, niềm tự tin vào chính mình và dân tộc mình, dù đó là một dân tộc nhỏ bé, tất nhiên dễ được nhân dân Việt Nam đồng tình, chấp nhận, biến thành cốt tủy và máu thịt của chính mình. Đó là tư tưởng Thiền, khẳng định chân lý, mầm giác ngộ, cội nguồn của mọi sức mạnh chính nằm sâu trong nội tâm mỗi người, chứ không phải ở bên ngoài. Đó là Phật giáo biện tâm ở đời Trần, được Trần Thái Tông, vị vua khai sáng ra đời Trần, vị anh hùng đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Mông- Nguyên lần thứ nhất thắng lợi, trình bày rõ trong cuốn Khóa Hư Lục: “Mặc vấn đại ẩn tiểu ẩn, hưu biệt tại gia, xuất gia, bất câu tăng tục, chỉ yếu biện tâm, bản vô nam nữ, hà tu trước tướng…” (Không kể là đại ẩn hay tiểu ẩn, không có phân biệt xuất gia hay tại gia, không kể là tăng hay tục, chỉ có điều cốt yếu là biện tâm, vốn không nam nữ, sao lại vướng mắc vào tướng…)
Ý tứ câu nói của Thái Tông là điều quan trọng nhất đối với người tu đạo Phật là biện tâm, tức là tìm hiểu tâm, tu tập tâm, rèn luyện tâm, từ bỏ tâm mê mờ chuyển thành tâm sáng suốt. Từ tâm bị thanh sắc chi phối chuyển thành tâm tự do tự tại, từ tâm tán loạn chuyển thành tâm định tỉnh, chuyên nhất. Tâm được chuyển hóa như vậy là một nguồn trí tuệ và sức mạnh vô song, giúp con người tạo nên những thành tích vĩ đại, như chúng ta đã thấy dưới đời Trần.
Niềm tự tin của Thái Tông và của các Phật tử đời Trần lên tới mức, tự nhận thấy mình là Phật, chứ Phật không phải ở đâu xa, do đó phải sống và hành động như Phật không khác. Chúng ta hãy nghĩ xem, nếu ở trong một nước, tất cả mọi người đều có niềm tin như vậy và hành động như vậy, thì đất nước sẽ biến thành cõi Phật, chứ cõi Phật đâu có ở một nơi xa xôi.
Cả Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông đều khẳng định những tư tưởng siêu việt như thế: “Phật thân tức ngã thân thị, vô hữu nhị tướng…” (Thân Phật tức là thân ta, không có hai tướng) (Khóa Hư Lục). Trần Nhân Tông cũng nói lên ý tứ đó trong bài “Cư Trần Lạc Đạo Phú”, nhưng với lời nôm na hơn: “Bụt ở trong nhà, Chẳng phải tìm xa, Nhân khuấy bổn nên ta tìm Bụt, Đến mới hay chính Bụt là ta”.
Tự tin ở mình, tin rằng Phật chính ở trong bản thân mình, nếu biến tu tập và gắng sức, sẽ có được sức mạnh phi thường lay trời chuyển đất. Đức tin đó là một trong những giá trị đạo đức quý báu nhất mà Phật đã đem lại cho người Việt Nam chúng ta. Tư tưởng đó đi vào dân gian, được nói lên bằng những câu ngộ nghĩnh, nhưng vẫn chứa đựng nội dung triết lý sâu sắc:“Phật ở trong nhà, cầu Thích Ca ngoài đường”; “Thứ nhất là tu tại gia, thứ hai tại chợ, thứ ba tại chùa” Vì Phật chính là lòng mình, cho nên đối với người Việt Nam, Phật không phải là ông Thần, ông Trời ngồi cao thăm thẳm:“Gần chùa gọi Bụt bằng anh, Trông thấy Bụt hiền, bế Bụt đi chơi.”. Hình như người dân Việt Nam sợ Thần, sợ ma quỷ, nhưng không sợ ông Bụt.
Tư tưởng tự lực tự cường, tin ở sức mình, không vọng ngoại là một truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta, nếu để cho mai một, thì thật là một mất mát lớn. Phật đã gần người dân như vậy, thì chùa cũng không thể xa dân. Nếu ngôi đình biểu trưng cho ngôi thứ tôn ty trật tự của Nho giáo, thì ngôi chùa lại khẳng định tinh thần bình đẳng dân chủ truyền thống của đạo Phật: “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt.”
Chùa không phải của sư mà của dân làng. Sư là ông thầy hướng dẫn nếp sống đạo đức và tâm linh của dân chúng. Chùa là trung tâm của các lễ hội tôn giáo, là trường học, là nhà thương, là nơi nghỉ tạm của khách qua đường, thậm chí còn là nơi trọ thường xuyên của những kẻ không nhà không cửa… “Mái chùa che chở hồn dân tộc, Nếp sống muôn đời của tổ tông…”. Mái chùa là thế! Bình yên, thân thương, ấm cúng, an hòa…, đồng hành với đời sống của dân chúng, của dân tộc, sẵn sàng giải tỏa những oán hận trong nhân sinh, sẵn sàng chịu cảnh thịnh, suy theo sự biến thiên tuần hoàn của vòng đời. Cũng nên nhắc lại rằng, đời vua Trần Minh Tông đời Trần, các Nho gia như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh nhiều lần đề nghị vua thay đổi pháp độ nhà nước theo Trung Hoa, nhưng vua Minh Tông không chịu. Nhưng do cơ chế khoa cử, số Nho sĩ ra làm quan ngày càng nhiều, và thông qua họ, từ nếp sống triều đình, hoàng gia, cho đến lễ nhạc, phẩm phục các quan cũng dần dần bị Bắc hóa. Mãi đến đời Trần Nghệ Tông vua mới tỉnh ngộ nói: “Triều trước dựng nước tự có pháp độ, không theo chế độ nhà Tống, là vì Nam Bắc đều làm chủ nước mình, không cần bắt chước theo nhau”.
“Vào khoảng năm Đại Trị, kẻ học trò mặt trắng được dùng, không hiểu ý sâu xa của việc lập pháp, đem nếp cũ của tổ tông thay đổi theo tục của phương Bắc cả, như về lễ phục, nhạc chương không kể hết…” Học trò mặt trắng tức là bọn bạch diện thư sinh Nho. Ở nước ta, Phật giáo thật sự đóng vai trò đối trọng đáng tin cậy, đối với mọi xu hướng bắc hóa không lành mạnh. Một vai trò rất hữu hiệu và tích cực, do Phật giáo gần hai nghìn năm tồn tại đã in sâu vào nếp sống, vào tâm tư của người Việt Nam. Nhiều thi sĩ Việt Nam cận và hiện đại đã nhận thức rõ vị trí đó của đạo Phật trong đời sống của người dân Việt: “…Vì vậy làng tôi sống thái bình, Sớm chiều gần gũi tiếng chuông linh, Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi, An ủi dân lành mọi mái tranh”.
Những vần thơ dân dã trên đây nói lên sự hiện diện của đạo Phật, của tiếng chuông, của mái chùa trong đời sống của nông thôn Việt Nam. Phải chăng người dân Việt Nam đã, đang và sẽ mãi gắn bó với đạo Phật, với chùa, với tiếng chuông như là một cái gì thân thương gần gũi nhất trong cuộc sống tâm linh và tình cảm của họ. Bên cạnh cuộc sống vất vả khó nhọc hàng ngày để có miếng cơm, manh áo mà tồn tại. Tất nhiên, vị trí của đạo Phật trong xã hội ta, trước hết là thuộc vào trình độ nhận thức, khả năng hành đạo và truyền đạo của đông đảo Tăng Ni Phật tử, tín đồ.
Sức mạnh của đạo Phật Không phải chỉ ở chỗ nó vũ trang cho con người niềm tin ở tự thân và dân tộc, đất nước của mình, mà còn ở chỗ nó thật sự giải đáp được những nhu cầu của đại chúng, của những tầng lớp nhân dân đông đảo. Nói cách khác, tính đại chúng quyết định sức mạnh của đạo Phật. Đạo Phật đi vào làng với những chùa làng. Hầu như làng Việt Nam nào cũng có chùa, thậm chí hai ba chùa. Chùa nằm ở rìa làng, thậm chí tọa lạc ngay ở gần chợ và được gọi là chùa chợ. Ngoài ra, còn có chùa núi, chùa hang là nơi đi hành hương, chiêm bái của đông đảo nhân dân cả nước hay là một vùng. Trẩy hội chùa hằng năm là một nét sinh hoạt độc đáo và đẹp của dân tộc Việt Nam:“Trên đường cát mịn, một đôi cô, Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa. Gậy trúc dắt bà già tóc bạc, Tay lần tràng hạt niệm Nam mô” (Nguyễn Bính).
Lê Quát cũng như Trương Hán Siêu, Nho sĩ cuối đời Trần đã tỏ ra khó chịu vô cùng về tính đại chúng của đạo Phật. Trong văn bia chùa Thiên Phúc (Bắc Giang cũ, nay là Hà Bắc), Lê Quát đã bộc lộ tất cả sự bực bội của mình: “Họ Phật lấy điều họa phước làm động lòng người, sao mà sâu xa bền chắc đến như vậy. Trên từ vương công, dưới đến thứ dân, hễ làm cái gì thuộc về việc Phật, tuy đem hết cả gia tài cũng không tiếc. Nếu hôm nay đem tiền của để xây chùa, xây tháp thì hớn hở vui vẻ, như trong tay đã cầm được một biên lai để ngày mai đi nhận số tiền trả lại. Cho nên, trong từ kinh thành, ngoài đến châu phủ, đường cùng ngõ hẻm, chẳng khiến mà theo, chẳng thề mà tin, hễ chỗ nào có nhà người ở là có chùa Phật. Bỏ đi thì làm lại, hư đi thì sửa lại. Lầu chuông đài trống cũng phân nửa nhà thiên hạ ở, xây cất rất dễ mà tôn sùng cũng lắm vậy. Ta từ lúc nhỏ đọc sách, chăm lo việc cổ kim, cũng rõ được ít nhiều đạo lý của Thánh hiền, để khai hóa thứ dân, mà chưa được người trong một làng tin ta. Ta thường đi du lãm sơn xuyên, cùng Nam cực Bắc, tìm những chỗ gọi là cung, gọi là miếu, thì rất ít thấy vì vậy ta rất hổ thẹn với bọn Phật đồ cho nên mới viết ra bài này.”
Bài văn bia của Lê Quát, một Nho sĩ không có thiện cảm gì với đạo Phật có thể nói là một sử liệu rất đáng quý giá, cho thấy mức độ phổ cập và tính đại chúng của đạo Phật dưới đời Trần, và sở dĩ như vậy là vì đạo Phật của phái Thiền Trúc Lâm thật sự được lòng dân, thật sự giải đáp được những nhu cầu tâm linh và tình cảm của dân chúng đông đảo, hướng dẫn được đông đảo dân chúng sống theo đạo đức năm giới mười thiện, tránh điều ác, làm điều lành.
Tin ở sức mình, tin ở dân tộc và đất nước, tin ở luật nhân quả nghiệp báo để cuộc sống của toàn dân hướng đến chỗ chân, thiện, mỹ, đó là công lao của đạo Phật. Để đối phó thắng lợi với ngoại xâm đến từ phương Bắc, nhân dân ta từ trên chí dưới phải đoàn kết nhau, thương yêu nhau như người trong một nhà. Khi được vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước, Thiền sư Pháp Thuận đã đáp bằng một bài kệ, trong đó có câu:“Quốc tộ như đằng lạc, Nam thiên lý thái bình” Ý nói: Nếu cả nước gắn bó, đoàn kết với nhau chặt chẽ như dây mây quấn (đằng lạc) thì nước Nam sẽ có thái bình. Đạo lý đó thật là dễ hiểu. Dân ta tuy không đông nhưng nếu biết đoàn kết với nhau thành một khối, thì có thể tạo thành sức mạnh vô địch, mà kẻ xâm lược dù có hùng mạnh đến đâu và đông gấp hằng trăm lần cũng không làm gì nổi. Khối đoàn kết toàn dân, trước hết được xây dựng trên tình thương giữa đồng bào như là anh em ruột thịt một nhà. Tình thương đó được minh họa bằng các câu thơ, mà chúng ta ai nấy đều tâm niệm thuộc lòng: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước hãy thương nhau cùng.” Hay: “Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”.
Khối đoàn kết đó cũng được xây dựng xung quanh một trung tâm vững chắc là một bộ phận lãnh đạo trung kiên, có đức độ, có tài năng, có lý tưởng. Thiền sư Pháp Thuận, đời Tiền Lê, trong bài kệ trên đã dẫn, nói lên ý tứ đó bằng hai câu sau: “Vô vi cư điện các, Xứ xứ tức đao binh.”Nghĩa là nếu đứng đầu là ông vua có hạnh vô ngã, cai trị dân không phải vì lợi ích của riêng mình, dòng họ mình mà vì lợi ích của đất nước, của toàn dân, thì khối đoàn kết mới được thật sự vững mạnh, trong nước mới hết nạn đao binh. Phật giáo, qua lời các Thiền sư, luôn luôn khuyến cáo vua chúa, quan lại phải sống cuộc đời mẫu mực, thương dân như con, và biết lấy lòng dân, ý dân làm lòng mình, ý mình.
Trong bài tựa sách “Thiền Tông Chỉ Nam”, (Khóa Hư Lục), vua Trần Thái Tông khi gặp quốc sư Viên Chứng trên núi Yên Tử, đã nghe lời khuyên của Quốc sư: “Phàm đã là bậc nhân quân thì phải lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình, ý muốn thiên hạ làm ý muốn của mình”.
Dưới đời Lý Thần Tông, Quốc sư Viên Thông cũng đã khuyên vua nên thi hành đức hạnh hiếu sinh, thương yêu dân như cha mẹ thương yêu con, và cẩn thận lựa chọn người có tài, có đức ra làm quan, không được dùng bọn tiểu nhân. Quốc sư nói: “Thiên hạ cũng ví như đồ dùng, đặt vào chỗ yên thì được yên, đặt vào chỗ nguy thì tất bị nguy. Xin bệ hạ hãy thực hành đức hiếu sinh cho hợp lòng dân, thì dân sẽ kính yêu bệ hạ như cha mẹ, ngưỡng mộ bệ hạ như mặt trời. Ấy là đặt thiên hạ vào chỗ yên vậy.”
Lại nói: “Trị hay loạn là ở dân. Quan lại được lòng người thì trị, mà mất lòng người thì loạn. Thần trải xem các bậc đế vương đời trước, chưa từng có triều đại nào không dùng quân tử mà hưng thịnh, cũng không có triều đại nào không dùng tiểu nhân mà suy vong1..”
Các sách chánh sử, dù là do các nhà Nho thần không ưa gì đạo Phật biên soạn, đều phải công nhận rằng các ông vua Phật tử đời Lý, đời Trần đều là những ông vua có nếp sống giản dị, gần gũi với dân, thương yêu dân như cha mẹ thương con.
Phan Huy Chú, trong “Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí” ca ngợi ông vua Phật tử Lý Thái Tông là ông vua “trị nước chuyên dùng nhân từ khoan thứ, là vị vua hiền nối được cơ nghiệp”. Nùng Trí Cao phạm tội phản nghịch, vua bắt được, không những tha tội chết mà còn phong tước và cho lại thái ấp cũ.
Vua Lý Thánh Tông, một ông vua Phật tử khác, sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép. Một lần, mùa đông rét ngọt, vua bảo các quan tả hữu: “Trẫm ở trong cung cấm, nào lò sưởi, nào áo lông cầu mà còn rét thế này, huống hồ những người bị giam cầm trong ngục, gian ngay chưa rõ, lại phải khổ sở vì gông cùm, ăn không đủ no, áo không đủ ấm. Trẫm rất lấy làm thương xót. Vậy hạ lệnh cho hữu ty phát chăn chiếu và mỗi ngày cho ăn hai bữa đầy đủ.”
Một lần, vua Lý Thánh Tông xử kiện, có con gái mình là công chúa Động Thiên đứng bên cạnh, vua chỉ vào công chúa mà phán bảo quan coi ngục rằng: “Ta yêu con ta cũng như những bậc cha mẹ trong thiên hạ yêu con cái họ. Trăm họ không biết nên tự phạm vào hình pháp, lòng ta rất thương. Cho nên từ nay về sau, không cứ tội nặng nhẹ, đều nhất luật khoan giảm2.”. Đến thời Trần, đức hiếu sinh của các ông vua Phật tử như Trần Thái Tông thể hiện rõ trong các sự kiện như, anh vua Trần Thái Tông là Trần Liễu dấy binh làm loạn, nhưng vua Trần Thái Tông tuy bắt được anh, đã không giết lại còn cho phục chức cũ.
Sau trận thắng Mông- Nguyên lần thứ hai, triều đình có bắt được một cái tráp, trong đó có một số thư từ của một số quan lại trao đổi với quân Nguyên. Triều đình đề nghị vua tra xét hỏi tội. Nhưng Trần Nhân Tông nói nên đốt cái tráp ấy đi cho yên lòng dân, vì “đại sự đã xong, quân thù đã ra khỏi bờ cõi…”
Đời Hậu Lê, tuy đạo Phật không còn chiếm địa vị quốc giáo như dưới hai đời Lý–Trần. Thế nhưng, một số các vua chúa vẫn còn tiếp thu được ảnh hưởng tốt lành của đạo Từ bi. Mỗi lần, trong nước có thiên tai như hạn hán, lụt, vua đều tự xem như là mình có lỗi đối với dân, đối với Trời, và biết nghiêm túc xem lại đường lối chính sách trị dân của mình có gây oán thán trong dân hay không. Thí dụ, năm 1448, trong nước có hạn hán lớn. Vua Lê Nhân Tông xuống chiếu cho tất cả các quan văn võ đều ăn chay, giữ mình trong sạch đến chùa Báo Ân làm lễ cầu mưa. Để làm gương, vua xuống chiếu tự phê bình mình như sau:“Từ năm trước đến nay, tai dị xảy ra luôn, như lụt, hạn, sâu, không năm nào không có. Hoặc là vì chính trị của Trẫm trên không thuận lòng Trời, dưới chưa thỏa chí dân mà sinh ra như thế chăng? Hoặc là các đại thần giúp đỡ không phải là người giỏi, điều hòa trái phép, xếp đặt trái lễ mà sinh ra như thế chăng? Nay các người, trên từ thần liêu trong ngoài, dưới đến các sĩ dân, có người nào vì Trẫm dám nói, chỉ ra những việc của Trẫm và các tể thần hại đến nhân dân chính sự chăng”
Vua và các quan đứng ra tự kiểm điểm trước dân chúng, mỗi lần xảy ra thiên tai nghiêm trọng. Phải nói đó là một biện pháp, một nghệ thuật an dân tốt đẹp. Một thành quả sáng tạo của Phật giáo, sau khi du nhập vào nước ta. Trên từ vua chúa quan lại, dưới cho đến tất cả thứ dân, ai nấy đều chăm bề sống đạo đức, như vậy để yên trời, để cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi. Đó là mê tín dị đoan chăng, hay đó là đỉnh cao của khoa học hiện đại, vì các nhà khoa học Mỹ cũng như Liên Xô đều thừa nhận, tình cảm con người rất ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây cối!
Từ bi kết hợp với trí tuệ, tình thương đi đôi với lẽ phải và lý trí, đó chính là nền tảng của đạo đức Phật giáo. Thực là một lý giải giản dị. Nhưng quán triệt được nó trong cuộc sống, không phải chỉ là cuộc sống của lớp trí thức lãnh đạo, mà là cả cuộc sống bình thường và hằng ngày của đông đảo những người dân bình thường. Đó quả là một công việc khó khăn và phức tạp. Thế nhưng, hình như Phật giáo đời Lý và đời Trần đã thành tựu được công việc khó khăn và phức tạp đó. Và đó chính là cội nguồn sức mạnh của nhân dân Việt Nam qua các thời đại Lịch sử.
Thích Phước Đạt (ĐSHĐ-004)
Sc Quảng Thảo diễn đọc
- Trích trong “Thiền Uyển tập Anh”. Bản dịch của Ngô Đức Thọ.
- Văn thơ Lý–Trần, tập I trang 263.