”
Này các Tỳ khưu,… vị nào có thể phục vụ Ta (bằng sự thực hành theo lời giáo huấn và giảng dạy của Ta), vị ấy có thể phục vụ người bệnh1”.
Tóm tắt
Kinh giáo giới Cấp Cô Độc (M.143; Anāthapiṇḍikovādasutta) là bài kinh số 143 thuộc Trung Bộ kinh2, bản kinh tương đương trong Trung A-hàm là Giáo hóa bệnh kinh3. Nội dung bài kinh đề cập đến sự kiện trưởng giả Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc) thân lâm trọng bệnh, trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời và được Trưởng lão Sāriputta (Xá-lợi-phất) động viên khích lệ thông qua bài pháp thoại liên hệ đến những giáo lý nền tảng của đạo Phật. Sau khi đã lãnh hội những lời giáo giới từ tôn giả Sāriputta về tinh thần “không chấp thủ”, ông Anāthapiṇḍika đã nếm được những mỹ vị ngọt ngào của Chánh pháp và tự tại hóa sanh vào cõi trời Tusitā. Việc tìm hiểu ý nghĩa của bài kinh sẽ cho chúng ta thêm một góc nhìn nhận về giáo hóa người bệnh theo tinh thần Phật giáo.
Đối diện với bệnh tật và nỗi sợ hãi về cái chết
Bệnh tật là một tất yếu của sự sống mà không ai có thể tránh khỏi, do đó thái độ tiếp nhận và đối đầu với bệnh tật là một trong những kỹ năng cần thiết để có thể an lạc ngay trong nghịch cảnh bệnh duyên. Sự xuất hiện của những hình bóng tu sĩ trong những lúc nguy nan tật bệnh mang ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Chính trong những hoàn cảnh bệnh tật người bệnh mới có thể có những chiêm nghiệm sâu sắc về bản thân hay về cuộc đời. Sự xuất hiện của hình bóng Tăng-già mang lại sự ấm áp, như một điểm tựa tâm linh an toàn, ngoài ra lời dạy của Đức Phật về năm uẩn, duyên sanh, vô thường, vô ngã,… nếu được người bệnh áp dụng quán chiếu vào trong lúc đó thì hiệu quả tu tập sẽ càng tăng tiến.
Một trong những sự thật mà mỗi con người phải trải qua, đó là tiến trình sinh hóa tuần hoàn của vũ trụ theo quy luật sanh-trụ-dị-diệt, theo đó, bệnh tật và cái chết là một trong những vấn đề trọng đại nhất của cuộc đời. Con người cũng là một thành phần trong vũ trụ đó, vì thế, mà Phật giáo đề cập đến vấn đề cốt lõi của đời sống con người chính là sự vượt qua “sanh, già, bệnh, chết” và tiến đến Niết-bàn. Chánh tri kiến và chánh tư duy là một trong những nền tảng nhận thức quan trọng, vì nó sẽ giúp chúng ta có khả năng nhìn nhận và đánh giá mọi sự vật hiện tượng trong hay ngoài thân dưới cái nhìn tuệ quán. Chấp nhận những cảm thọ do bệnh tật gây ra và kiểm soát những cảm xúc của cơ thể trong lúc bệnh đó cũng chính là một sự thực tập về tuệ quán:
Thật sự là vậy, này gia chủ. Thân của gia chủ là bệnh hoạn, ốm đau, yếu ớt. Ai mang cái thân này lại tự cho là không bệnh, dù chỉ trong một giây phút, người ấy phải là người ngu. Do vậy, gia chủ cần phải học tập như sau: ‘Dù cho thân tôi có bệnh, tâm sẽ không bị bệnh.’ Như vậy, gia chủ cần phải học tập4.
Một nhận thức đúng đắn sẽ làm giảm thiểu các phát sanh không mong muốn và có thể điều tiết hoặc làm chủ các cảm thọ đau khổ, nghĩa là mặc dù “thân bệnh nhưng tâm không bệnh”. Tuy nhiên, nhận thức này cần phải được rèn luyện hàng ngày ngay cả khi trong những lúc khỏe mạnh tâm trí minh mẫn. Trong trường hợp người bệnh đang đấu tranh khốc liệt với bệnh tật và tâm trí không còn minh mẫn thì việc hướng dẫn các phương pháp an tâm cho người bệnh có thể gặp trở ngại.
Do đó, Phật giáo nhấn mạnh việc phát triển nhân cách, đạo đức tâm linh hướng thượng đối với một con người bình thường, đầy đủ khả năng tiếp thu và có khả năng thực hành: “Ta giảng sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy, không phải cho người không biết, cho người không thấy5”; “có nhân, có duyên, các tưởng của con người sinh và diệt. Chính do sự học tập, một loại tưởng sanh, chính do sự học tập, một loại tưởng diệt6” và “tưởng khởi trước, trí mới khởi sau, do tưởng sanh trí mới sanh7”. Chính nhờ sự luyện tập, nuôi dưỡng và phát triển các ý niệm sơ khởi, tức các tưởng (saññā) thiện lành trên nền tảng chánh tri kiến rồi từ đó chánh trí sẽ xuất hiện.
Một khi xác nhận được tầm quan trọng của nhận thức đúng đắn, điều này sẽ làm kim chỉ nam cho các hoạt động giáo hóa đối với người bệnh và từ đó cần phải có những phương pháp phù hợp, đúng thời điểm. Nghĩa là đối với bệnh nhân nhẹ, vẫn có khả năng nhận thức và hành động như một người bình thường thì cần phải hướng dẫn họ về việc quy y Tam bảo, giữ gìn các giới đã thọ, phát tâm bố thí cúng dường, tu tập thiền quán,… Riêng đối với những bệnh nhân trong những giây phút cuối đời, nhưng đối với Phật pháp đã có một trình độ thâm nhập nhất định như trường hợp của ông Cấp Cô Độc, đã chứng quả Dự lưu8 thì tôn giả Sāriputta khi thăm bệnh chỉ cần nhắc nhở về sự vô thường, duyên sanh ngay tấm thân này và hướng dẫn đến với một trạng thái không sợ sệt, không còn chấp thủ.
Xu hướng tâm lý chung của con người đó là thích các cảm giác dễ chịu và ghét các cảm giác đau khổ khó chịu, trong khi đó, bệnh tật thường đi kèm với các cảm thọ đau đớn về thân xác. Trong Kinh mũi tên9, Đức Phật đưa ra ví dụ về cảm thọ của một người không có sự tu tập (vô văn phàm phu) và một người có sự tu tập (thánh đệ tử), khi một cảm thọ (lạc thọ, khổ thọ, trung tính) xảy đến sẽ xuất hiện hai khuynh hướng tâm lý: phản kháng – đau khổ và tỉnh giác chấp nhận – an lạc.
Vì vậy, đối với người học Phật do nhờ năng lực của sự tu tập tích lũy các phản xạ trước các nghịch cảnh nghịch duyên, nhờ thế mà cho dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào trong họ vẫn luôn có sự an lạc bình yên nội tại. Tuy nhiên, khi đối diện với bệnh tật, không phải ai cũng có khả năng kiểm soát thân và tâm của chính mình. Do đó, đối với những ai chưa từng có sự thực hành tuệ quán thì khả năng mất bình tĩnh, không tự chủ, sợ hãi,… là một điều tất yếu. Ngoài ra, các vấn đề phát sinh đối với người bệnh như: các nỗi lo về kinh tế tài chánh, ám ảnh về cái chết, đau đớn, căng thẳng,… là những tâm lý không thể nào tránh khỏi.
Như vậy, ngoài việc hỗ trợ về tinh thần thông qua các pháp thoại khích lệ cổ vũ tinh thần vô chấp vô trụ đối với người bệnh, thì các hành động thiết thực cũng cần phải có như: hỗ trợ về tài chính, hỗ trợ về các nhu yếu phẩm, các trang thiết bị cần thiết, cung cấp một không gian chữa lành cho người bệnh, …
Giáo hóa người bệnh theo tinh thần Phật giáo
Tuy đời sống tại gia của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc) luôn bận bịu tất bật với những công việc kinh doanh của đời sống gia đình, nhưng những lý do đó không thể ngăn cách hay cản trở tấm lòng nhiệt huyết chân thành của ông đối với Phật pháp. Tản mác trong kinh điển chúng ta có thể thấy rất nhiều lần ông đến diện kiến Đức Phật và các vị đệ tử Phật để lắng nghe tiếp nhận và thực hành những pháp ngữ cao quý. Mặc dù là một thương gia có tiếng tăm, nhưng thái độ cung kính tôn trọng Tam bảo cùng với đức tin trong sáng đã tạo nên một cốt cách Anāthapiṇḍika với đầy đủ các tố chất của một vị cư sĩ hộ pháp mẫu mực.
Đặc biệt, bài kinh Giáo giới Cấp Cô Độc, đã ghi nhận lại những giây phút cuối của cuộc đời ông Anāthapiṇḍika cùng với những lời giáo giới từ kim khẩu của Trưởng lão Sāriputta về tinh thần không chấp thủ.
Với tâm từ bi vô hạn lượng, Trưởng lão Sāriputta cùng với tôn giả Ānanda ân cần đến bên giường bệnh nhẹ nhàng với những lời thăm hỏi động viên đầy chân tình: “Này cư sĩ, ta mong rằng ông có thể kham nhẫn, ta mong rằng ông có thể chịu đựng! Ta mong rằng khổ thọ được giảm thiểu, không gia tăng, sự giảm thiểu được rõ rệt, không có gia tăng10!”. Khi thân thể đang phải đối mặt với những nỗi đau đớn do bệnh tật gây ra, nhưng tấm chân tình của một vị Tôn túc trong Tăng đoàn đã khơi dậy những xúc cảm trào dâng, mặc dù không thể cản ngăn được những cơn đau đang bộc phát mãnh liệt trong thân xác: “Thưa Tôn giả Sāriputta, con không thể kham nhẫn, con không thể chịu đựng. Sự thống khổ của con gia tăng không có giảm thiểu, sự gia tăng rõ rệt không có giảm thiểu11.”. Bởi vì ông đang đứng bên bờ vực của cái chết, tuy nhiên lúc này, Anāthapiṇḍika đã chứng quả Dự Lưu trước đó rồi, cho nên, có khả năng ông chỉ đau đớn về thể xác nhưng về tinh thần ông vẫn minh mẫn và có thể sẵn sàng tiếp nhận những lời giáo giới, chỉ dẫn từ tôn giả Sāriputta.
Tôn giả Sāriputta đã tuyên thuyết một pháp thoại thâm sâu và thích hợp với hoàn cảnh cũng như đối tượng đang hiện diện. Ngài đã tuyên dạy về sự không chấp thủ vào sáu căn, sáu trần, sáu thức, sáu xúc, sáu thọ, sáu giới, năm uẩn,…: “Do vậy, này cư sĩ hãy học tập như sau: “Tôi sẽ không chấp thủ con mắt và tôi sẽ không có thức y cứ vào con mắt”… .“Tôi sẽ không chấp thủ những gì được thấy, được nghe, được cảm thọ, được nhận thức, được hy cầu, được tư sát với ý, và tôi sẽ không có thức y cứ vào các pháp12 [nói trên]… ”.
Ngài Sāriputta đã giảng dạy về giáo lý “không chấp thủ” (na upādiyissāmi) cho Cấp Cô Độc xuyên suốt bài kinh, bao gồm:
1) Không chấp thủ 18 giới (dhātu). Trong đó, 18 giới là sự kết hợp giữa sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) phát sinh sáu thức (thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác, ý thức). Đây được xem như là toàn bộ thế giới quan mà khả năng giới hạn con người có thể nhận thức thông qua căn, trần, thức.
2) Không chấp thủ 6 xúc (phassa). Sáu xúc bao gồm: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc.
3) Không chấp thủ 18 thọ (vedanā). Vedanā hay “cảm thọ” có nghĩa là sự trải nghiệm của các loại cảm giác trong khả năng nhận biết của con người khi một đối tượng suy nghĩ của giác quan (ārammaṇa) tiếp xúc với sáu căn sanh ra sáu thức. 18 cảm thọ đến từ sáu căn, sáu trần và sáu thức sẽ phát sanh ra các trải nghiệm vedanā tương ứng.
4) Không chấp thủ 6 đại giới (mahābhūtā). Sáu đại giới gồm có: địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, hư không giới và thức giới.
5) Không chấp thủ năm uẩn (khandha). Năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
6) Không chấp thủ Tứ không định (Hư không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ).
7) Không chấp thủ thế giới này, và các thế giới khác.
8) Không chấp thủ các sở kiến, sở văn, sở xúc, sở cầu, sở tri (chấp cái chỗ mà mình biết).
Không chấp thủ vào chúng, tức là không đồng hóa những cảm giác, tư tưởng, nhận thức,… là của mình, do không chấp thủ nên không có đau khổ, do không có đau khổ mà được an lạc giải thoát. Trong một bài kinh khác, Phật cũng đã xác nhận về giáo lý của Ngài liên hệ đến mục đích không chấp thủ: “Lành thay, lành thay, này Tỳ-kheo! Lành thay, này Tỳ-kheo! Ông hiểu pháp Ta dạy là với mục đích tịch tịnh hoàn toàn, không có chấp thủ13”. Một đoạn kinh khác ghi nhận rằng: “Này các Tỳ-kheo, nếu thức đối với ngoại [trần] không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội [trần], không bị chấp thủ quấy rối, sẽ không có tập khởi, sanh khởi của khổ về sanh, già, chết trong tương lai14.” Theo mắt xích của vòng 12 nhân duyên, ái sẽ dẫn đến thủ và hữu và kéo theo vòng tái sanh luân hồi. Do luyến ái sẽ sanh ra sự bám víu chấp thủ, nên sự cởi mở, xả bỏ những níu kéo bám chặt về những yêu ghét liên hệ đến bản thân cũng như những thứ liên quan phát sinh từ thân và tâm, sẽ dẫn đến sự giải thoát tự do không còn chấp thủ. Như vậy, có thể nói rằng đây cũng chính là một trong những biện pháp tâm lý có khả năng đưa cá nhân vượt qua những giới hạn của tự ngã để tiến đến một sự giải thoát không còn chấp thủ, đồng nghĩa với sự phá vỡ một trong 12 mắc xích của vòng nhân duyên.
Điều đặc biệt trong bản kinh thuộc Tăng nhất A-hàm, trước khi ngài Sāriputta thuyết giảng về bài pháp vô chấp thủ, Tôn giả khuyên ông Cấp Cô Độc hãy nên nhớ tưởng đến Phật, Pháp, Tăng thì chắc chắn sẽ được sanh về cõi lành, cõi trời hoặc trong loài người15, Ngài Sāriputta cũng nói rõ về vòng nhân duyên và Ngài xác định rằng: “Đây là pháp tu bậc nhất về nghĩa không”liên hệ đến tinh thần vô chấp thủ16.
Sau khi nghe được bài pháp đầy ý nghĩa cao sâu, Anāthapiṇḍika đã xúc động và rơi lệ bởi vì ông cho rằng đây là bài pháp vi diệu mà từ trước đến giờ mới được nghe Tôn giả thuyết như vậy17. Ông Anāthapiṇḍika khẩn khoản xin Tôn giả hãy phổ biến giáo thuyết này ra đối với hàng cư sĩ bởi vì “có những thiện gia nam tử sanh ra với cấu uế không nhiều, nếu không được nghe pháp, sẽ bị đọa lạc; nhưng nếu được nghe họ có thể biết được [Chánh] pháp18”. Lời thỉnh nguyện này đã thể hiện tấm lòng vị tha cao cả của Anāthapiṇḍika sau khi đã được pháp lạc mong muốn cho mọi người cũng hưởng được vị ngọt của Chánh pháp.
Cuối bài kinh, Anāthapiṇḍika sau đó mạng chung với tâm thái an nhiên tự tại và hóa sanh vào cõi trời Tusita (Đâu-suất-đà thiên). Sau khi trở thành một vị trời, thiên tử Anāthapiṇḍika với dung sắc chói sáng thù thắng đã trở lại tinh xá Jetavana đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi dùng bài kệ tán dương và cảm niệm những ân đức mà Tam bảo. Anāthapiṇḍika chính là một trong những gương mặt tiêu biểu và dại diện cho hàng cư sĩ tại gia, soi sáng cho lý tưởng dấn thân phụng sự nhân sinh, tốt đạo đẹp đời.
Ý nghĩa và giá trị thực tiễn
Có thể nói rằng, mối quan hệ hữu cơ giữa người tu sĩ và cư sĩ là một trong những mối liên hệ tương quan, tương hỗ, không chỉ trong thời đại nay mà chúng đã có từ thời Đức Phật. Người xuất gia tuy từ bỏ đời sống gia đình nhưng không thể sống tách biệt đối với người cư sĩ tại gia. Bởi vì, người tại gia là người cung cấp những nhu yếu phẩm (tứ vật dụng) cần thiết cho người tu sĩ. Ngược lại, những vị tu sĩ là người đem đến cho người cư sĩ những kinh nghiệm về pháp học và pháp hành, những liệu pháp tâm linh đối trị nỗi khổ, niềm đau của kiếp nhân sinh. Đây cũng chính là một trong những ý nghĩa của một Bikkhu đó là ý nghĩa Khất sĩ, trên cầu giáo pháp của Phật và đem giáo pháp đó để hóa độ chúng sanh.
Bệnh tật là một tất yếu của sự sống mà không ai có thể tránh khỏi, do đó thái độ tiếp nhận và đối đầu với bệnh tật là một trong những kỹ năng cần thiết để có thể an lạc ngay trong nghịch cảnh bệnh duyên. Sự xuất hiện của những hình bóng tu sĩ trong những lúc nguy nan tật bệnh mang ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Chính trong những hoàn cảnh bệnh tật người bệnh mới có thể có những chiêm nghiệm sâu sắc về bản thân hay về cuộc đời. Sự xuất hiện của hình bóng Tăng-già mang lại sự ấm áp, như một điểm tựa tâm linh an toàn, ngoài ra lời dạy của Đức Phật về năm uẩn, duyên sanh, vô thường, vô ngã,… nếu được người bệnh áp dụng quán chiếu vào trong lúc đó thì hiệu quả tu tập sẽ càng tăng tiến.
Ngoài các liệu pháp điều trị thuộc về tâm lý học Phật giáo thì tiến trình hoạt động điều trị bệnh cũng phải tuân theo các chỉ định từ bác sĩ chuyên môn, kết hợp các dược liệu đúng liều lượng, cân nhắc đối với các thuốc giả, thuốc chứa các chất độc hại nguy hiểm cho con người,… Việc cải thiện môi trường sống, tức là các yếu tố từ bên ngoài cũng có thể tác động ít nhiều đến bệnh tật, do đó, nếu có thể được một không gian xanh sạch cho người bệnh thì hiệu quả điều trị càng cao.
Như vậy, chúng ta nhận thấy rằng toàn bộ giáo pháp của Đức Phật chỉ diễn bày hai phạm trù lớn: chỉ ra khổ và con đường chấm dứt khổ. Bệnh tật cũng là một biểu hiện của khổ (dukkha) và nó cũng là một tiến trình sinh lý tự nhiên của con người. Bằng tất cả sự tin yêu với trái tim từ bi và tấm lòng vị tha vô ngã, những vị xuất gia chân chính thực hiện con đường lý tưởng Bồ-tát đạo đem Phật pháp vào đời, đem đạo Phật đến bên giường bệnh. Trong xã hội hiện đại, bệnh tật là một trong những gánh nặng to lớn của con người, chính vì vậy đối với cộng đồng Phật giáo nói chung và những vị xuất gia nói riêng, việc thực hiện tốt vai trò trách nhiệm của mình đối với tâm nguyện độ sanh này sẽ đem đến nhiều lợi lạc và pháp Phật sẽ mãi mãi là nguồn ánh sáng an lành cho chúng sanh muôn đời nương tựa.
NS. TN. Huệ Tĩnh (ĐSHĐ-133)
- Đại Phẩm II, TK Indacanda dịch, NXB Hồng Đức, 2021, tr. 217.
- Kinh Trung Bộ, Thích Minh Châu dịch, NXB Hồng Đức, 2020, tr. 1083-1087.
- 《中阿含經》教化病經 (CBETA 2023.Q4, T01, no. 26, p. 458b28-29).
- Kinh Tương Ưng Bộ, Kinh Nakulapitu, Thích Minh Châu dịch, NXB Hồng Đức, 2020, tr. 1218.
- Kinh Trung Bộ, Kinh tất cả lậu hoặc, sđd, tr. 7.
- Kinh Trường Bộ, Kinh Poṭṭhapāda, Thích Minh Châu dịch, NXB Hồng Đức, 2020, tr. 145.
- Kinh Trường Bộ, Kinh Poṭṭhapāda, sđd, tr. 147.
- Kinh Tương Ưng Bộ, Kinh Anāthapiṇḍika thứ hai, sđd, tr. 1271.
- Kinh Tương Ưng Bộ, Kinh với mũi tên, sđd, tr. 868.
- Kinh Trung Bộ, Kinh giáo giới Cấp Cô Độc, sđd, tr. 1084.
- Kinh Trung Bộ, Kinh giáo giới Cấp Cô Độc, sđd, tr. 1084.
- Kinh Trung Bộ, Kinh giáo giới Cấp Cô Độc, sđd, tr. 1084-1085.
- Kinh Tương Ưng Bộ, Kinh bệnh thứ hai, sđd, Tr. 754.
- Kinh Trung Bộ, Kinh tổng thuyết và biệt thuyết, sđd, tr. 1051.
- 《增壹阿含經》(CBETA 2023.Q4, T02, no. 125, p. 819b21-c4).
- 《增壹阿含經》卷49:「是謂,長者!名為空行第一之法。」(CBETA 2023.Q4, T02, no. 125, p. 819c23-24).
- Kinh Trung Bộ, Kinh giáo giới Cấp Cô Độc, sđd, tr. 1085.
- Kinh Trung Bộ, Kinh giáo giới Cấp Cô Độc, sđd, tr. 1086.