Phạm: upavasatha hoặc upavāsa. Pàli: uposatha hoặc posatha. Cũng gọi Ưu ba bà tố đà, Ưu bà sa, Bố tát đà bà, Bố sái tha, Bố sa tha, U ba bà sa, Bô sa đà, Bao sái đà, Ô bô sa tha. Hán dịch: trưởng tịnh, trưởng dưỡng, tăng trưởng, thiện túc, tịnh trụ, trường trụ, cận trụ, cộng trụ, đoạn, xả, trai, đoạn tăng trưởng, hoặc gọi là thuyết giới.
Nghĩa là các vị Tỳ kheo ở chung, cứ mỗi nửa tháng tập hợp đông đủ ở một chỗ, hoặc tụ tập ở nhà Bố tát (Phạm: uposathàgàra, tức là nhà thuyết giới), thỉnh vị Tỳ kheo thông thạo giới luật nói giới bản Ba la đề mộc xoa (tức giới kinh) để xét lại những hành vi trong nửa tháng vừa qua xem có phù hợp với giới bản không, nếu có ai phạm giới thì ra trước chúng Tăng xin sám hối, để các Tỳ kheo đều được ở yên lâu dài trong giới thanh tịnh, nuôi lớn pháp lành, thêm nhiều công đức. Lại nữa, tín đồ tại gia, vào sáu ngày trai, nhận giữ tám giới Quan trai, cũng gọi là Bố tát, vì được tăng thêm các pháp lành.
Phép Bố tát vốn bắt nguồn từ phép cúng tế trong kinh Phệ Đà của Ấn Độ xưa, tức là cúng tế dự bị được cử hành một ngày trước ngày cúng tế chính thức vào đầu tháng (Phạm: darza-màsa = trăng mới) và giữa tháng (Phạm: paurịa-màsa = trăng tròn) gọi là Bố tát. Vào ngày tế lễ này, người đứng làm chủ tế phải nhịn ăn, an trụ trong giới pháp thanh tịnh để thân tâm được trong sạch.
Về sau, phép Bố tát được truyền đến thời đại đức Phật, ngoại đạo Ni Kiền Tử, vào những ngày Bố tát, vẫn hội họp ở một chỗ, nhịn ăn giữ bốn giới v.v…, đức Phật cũng cho phép Tăng đoàn của Ngài thực hành pháp này, cho nên biết nghi thức Bố tát trong Phật giáo cũng đã bắt nguồn từ tập tục này mà ra. Duy có điều là, nếu y theo lời Phật dạy thì nên tụng toàn bộ Ba la đề mộc xoa, nhưng nếu như gặp các duyên như tám nạn v.v… thì chỉ tụng một phần cũng được. Bởi thế nên biết, tùy theo tình hình an nguy mà việc thuyết giới được đầy đủ hay tóm tắt có khác nhau.
Luật Tứ phần quyển 58 chia Bố tát làm bốn loại: Tam ngữ bố tát, Thanh tịnh bố tát, Thuyết ba la đề mộc xoa bố tát và Tự tứ bố tát.
Luật Ngũ phần quyển 18 nêu ra năm loại: Tâm niệm khẩu ngôn, Hướng tha thuyết tịnh, Quảng lược thuyết giới, Tự tứ bố tát và Hòa hợp bố tát.
Thiện Kiến Luật Tì Bà Sa quyển 16 nêu ra chín loại: Bố tát ngày 14, Bố tát ngày 15, Bố tát hòa hợp, Bố tát Tăng, Bố tát chúng, Bố tát một người, Bố tát thuyết Ba la đề mộc xoa, Bố tát tịnh, Bố tát sắc v.v… Còn về nhật kỳ của ngày Bố tát thì các kinh luật đều nói khác nhau. Trung A hàm quyển 14 kinh Đại Thiên Nại Lâm, và kinh Tăng Nhất A Hàm quyển 16 lấy các ngày mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30 (tức là sáu ngày chay mỗi tháng) làm ngày Bố tát. Luật Tứ Phần quyển 58 thì lấy các ngày mồng 1, 14, 15 làm ngày Bố tát. Luận Đại Trí Độ quyển 13 thì lấy các ngày mồng 1, 8, 14, 16, 23, 29 làm ngày Bố tát.
Nói một cách tổng quát, trong nửa tháng mà thuyết giới những ba lần thì e quá phiền, nên về sau mới có quy định nửa tháng thuyết giới một lần. Ở Trung Quốc và Nhật Bản xưa nay phong tục Bố tát và trì trai cũng lưu hành khá rộng rãi.
Theo truyền thống đó, ngày nay Tăng Ni chúng mỗi nửa tháng đều thực hiện pháp Bố tát.
Viên Minh (tổng hợp) (ĐSHĐ-010)
Diễn đọc: SC Khánh Giác
1 Bát nạn: 1. Nạn do vua chúa, 2. Nạn do giặc cướp, 3. Nạn do lửa, 4. Nạn do nước, 5. Nạn do bệnh, 6. Nạn do loài người, 7. Nạn do phi nhân (ác ma, quỷ), 8. Nạn do ác trùng.