Đôi điều chia sẻ về Bát kỉnh pháp
Thành lập giáo đoàn Tỳ-kheo-ni liên hệ rất nhiều đến Bát Kỉnh Pháp. Giáo đoàn và Bát Kỉnh Pháp là một trong những vấn đề gây tranh luận và bất đồng rất lớn trong truyền thống Phật giáo xưa cũng như nay. Từ những bất đồng về phương diện lý giải, nguồn gốc ra đời của nó mà giáo đoàn Phật giáo trên thế giới có nhiều quan điểm cá biệt. Hiện tại, chỉ có những nước theo Phật giáo Đại thừa như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và Triều Tiên có giáo đoàn Tỳ-kheo-ni. Các nước Đại thừa theo truyền thống của Tây Tạng, chỉ có nữ tu không có Tỳ-kheo-ni. Những nước theo Phật giáo Nam tông thì truyền thống Tỳ-kheo-ni không còn nữa. Các nỗ lực của các cao tăng trên khắp thế giới, tổ chức các giới đoàn Tỳ-kheo-ni cho các vị nữ tu của các truyền thống Nam tông đã bắt đầu thiết lập. Nhiều người đã từ bỏ truyền thống Nam tông đi theo truyền thống Bắc tông để được tư cách làm Tỳ-kheo-ni. Sự kiện đó làm nổi bật được nhu cầu mà ngày xưa đức Phật gọi là giới, tức là thông qua sự tiếp nhận giới phẩm.
Đề tài thiết lập Ni đoàn Phật giáo và Bát Kỉnh Pháp khá hấp dẫn. Hấp dẫn vì nó đề cập đến một vấn đề gây tranh luận, về học thuật giữa các trường phái Phật giáo và tạo ra rất nhiều các tiền đề nghị sự. Khi đề cập đến vấn đề này, tôi cố gắng trình bày một cách rất khách quan, không hề có dụng ý bài bác các quan điểm trước đây. Lại càng không có dụng ý, ủng hộ Ni giới mà chỉ phân tích vấn đề đặt ra trong nền tảng của lịch sử. Với nhiều vấn nạn tôi cho rằng nếu ta không dám mạnh dạn đặt ra thì sự bất lợi về tổng thể Phật giáo là một vấn đề ta không thể tránh khỏi.
Đặt vấn đề đó trong một bối cảnh lớn hơn, quan trọng hơn khi tính tác giả của vấn đề được gắn cho đức Phật, có thể tạo ra rất nhiều nỗi oan trái trong cuộc đời. Cho nên, mạnh dạn nói, mạnh dạn phân tích là một trong những cách thức ta cần phải được mời gọi. Đồng tình hay không thuộc về quan điểm của rất nhiều người. Rất khó tìm được tiếng nói đồng tình của tăng bộ bởi vì Bát Kỉnh Pháp dường như tạo ra nhiều ưu quyền cho Tăng chúng. Trong khi đó, khi trình bày đề tài này dĩ nhiên là Ni giới sẽ hoan hỉ hơn vì họ cảm thấy rằng mình được quan tâm, các vấn đề trong lịch sử được đặt lại. Sự trình bày của tôi không nằm trong chỗ là không ủng hộ quý thầy mà ủng hộ chư Ni, chuyện đó không có, chỉ có con đường duy nhất là ủng hộ Phật pháp. Nói những gì cần nói và nói một cách rất khách quan, có cơ sở dữ liệu không nói theo cảm tính. Đề cập đến thiết lập giáo đoàn Tỳ-kheo-ni ta không thể nào bỏ qua sự kiện lịch sử.
Nguồn gốc ra đời giáo đoàn Tỳ Kheo Ni
Lịch sử kể rằng, sau khi Như Lai Thế Tôn giác ngộ đạo Bồ đề được bốn năm, Ngài trở về theo lời thỉnh cầu của vua Tịnh Phạn Vương. Trong chuyến viếng thăm đó, một số dữ liệu cho rằng di mẫu của đức Phật đã thỉnh nguyện Ngài cho bà được xuất gia. Bà đã thỉnh nguyện ba lần, nhưng cả ba lần đều bị đức Phật từ chối, với lý do là gia nhập của Ni giới ở trong tăng đoàn, có thể tạo cơ hội phát sinh nhiều vấn đề, ảnh hưởng đến tính chất phạm hạnh thanh tịnh của tăng chúng. Sau khi phụ vương của đức Phật qua đời, di mẫu của Ngài đã tự cắt tóc, mặc y, nhuộm bằng vỏ cây cùng với khoảng năm trăm bà hoàng của dòng họ Sakya lên đường đến thành Xá Ly nơi đức Phật đang ngự trong đại lâm, đặc biệt là trong sảnh đường ku-ta-ga-ra. Sự kiện đó làm cho rất nhiều người ngạc nhiên trong thán phục. Bởi vì, trước đây người ta nghe nói di mẫu muốn xuất gia nhưng lời nói đó có thể là một lời đồn đại. Xuất thân từ vua chúa và là giai cấp cao nhất trong xã hội, ấy thế mà từ bỏ đời sống vương giả để trở thành những người tu sĩ. Mỗi ngày phải đi hành khất để truyền bá đạo giải thoát là điều khó có thể nghĩ bàn. Quần chúng nghe đều kính phục, tăng chúng nghe đều kính nể.
Đại đức A Nan đã nhìn thấy tay chân của họ sưng lên, thân thể thì lấm lem bùn bởi vì đi con đường quá xa để gặp Như Lai Thế Tôn. Mắt sưng lên, bởi vì khóc biết rằng Phật sẽ không nhận. Có người cho rằng, vì đức vua Tịnh Phạn chết cho nên di mẫu cảm thấy buồn quá mới đi tu. Nói như vậy, chỉ có vẻ thích hợp về phương diện logic, tình đời thế thái trong quan hệ giữa vợ và chồng. Nếu ta nói theo đạo lý vô thường của nhà Phật, có thể tạo ra những đột biến về nhận thức, rõ ràng sự ra đi đó không phải vì cô đơn quá, mà là thức tỉnh và thấy rằng những giá trị vương quyền của thế gian cũng chỉ tạm bợ trong một giai đoạn nào đó. Vấn đề còn lại phải tìm kiếm những giá trị tâm linh cao hơn.

Cuộc đối thoại giữa Thế Tôn và A Nan
Ngài A Nan đã tới thưa thỉnh với đức Phật đến ba lần mà đức Phật vẫn từ chối và giữ vững lập trường của Ngài. Thứ nhất, A Nan lý luận rằng: Di mẫu đã thương Như Lai Thế Tôn như là con ruột, nuôi nấng, chăm sóc, vỗ về và nhờ công ơn trời biển đó mà Như Lai có được ngày hôm nay. Lẽ nào Như Lai dạy chúng con về đạo lý hiếu thảo, Như Lai lại không cho phép dì của mình trở thành những người cao thượng? Nghĩa là A Nan đã đánh vào tâm điểm của lòng thương tưởng, hiếu kính của Như Lai.
Thứ hai, A Nan đặt ra lý luận về tiềm năng đạo đức và tâm linh của Ni giới. Ngài A Nan hỏi rằng:
– Bạch Như Lai Thế Tôn, chúng con thường nghe, Ngài dạy tất cả mọi chúng sinh đều có Phật tính, ai cũng có khả năng trở thành vị giác ngộ trong tương lai. Chúng sinh trong ngữ cảnh mà Như Lai nói có bao gồm người nữ hay không hay là loại trừ người nữ ra một bên?
Như Lai Thế Tôn nói:
– Dĩ nhiên có người nữ, người nữ có thể tu giác ngộ, thành đạo giải thoát.
Ngài A Nan hỏi tiếp:
– Nếu như họ có thể được giác ngộ giải thoát vì sao Thế Tôn không cho?
– Sự kiện thứ ba rất quan trọng, khi Như Lai Thế Tôn chấp nhận cho Di mẫu và năm trăm bà hoàng Sakya đi tu vì Ngài phán một câu rất lịch sử, câu này trở thành cơ sở lý luận của rất nhiều truyền thống, không chấp nhận Ni giới. “Ông phải biết người nữ xuất gia thì chánh pháp của ta sẽ giảm thọ đi 500 năm”. Hay nói một cách khác, theo câu nhận định này của Như Lai thì chánh pháp được Ngài đẳng thức hóa bằng một ngàn năm. Đó là ba sự kiện quan trọng liên hệ đến sự thiết lập giáo đoàn Ni.
Vì sợ chánh pháp giảm thọ năm trăm năm Như Lai Thế Tôn đã đưa ra một sự kiện thứ tư, đó là tất cả những vị Ni đều phải vâng giữ Tám Kỉnh Pháp. Tám Kỉnh Pháp là nền tảng rất quan trọng hỗ trợ cho chánh pháp không bị suy thoái và giảm thọ. Di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề đã chấp nhận một cách không lưỡng lự. Mừng quá, nỗi khao khát bao nhiêu năm đã thành tựu, và những điều kiện đặt ra như vậy rất dễ dàng với bà. Bởi vì, chánh pháp đối với bà là gia tài tâm linh quí nhất, báu vật quí nhất trên cuộc đời này và những điều kiện kia giúp cho bà đạt được gia tài đó không có gì hạnh phúc cho bằng.
Góc độ lợi và bất lợi của Bát kỉnh pháp
Chúng ta nhận định theo hai góc độ, góc độ thứ nhất là Bát Kỉnh Pháp và góc độ thứ hai là Bất lợi của Bát Kỉnh Pháp. Đề cập đến lợi ích của Bát Kỉnh Pháp thì kinh Tăng Chi tập I có một đoạn trích dẫn. Nguồn gốc của Ni đoàn là do A Nan Đà, một người nghĩ đến tương lai, xây dựng bờ đê cho một bờ hồ nước lớn để nước không có thể chảy qua được. A Nan Đà, vì nghĩ đến tương lai mới ban hành tám pháp này cho các Tỳ-kheo-ni, từ nay cho đến trọn đời không thể vượt qua. Tính cách phát huy này đã tạo ra cơ sở nền tảng, cho rằng Bát Kỉnh Pháp do chính đức Phật nói. Ai yêu cầu hủy bỏ Bát Kỉnh Pháp là đi ngược lại với những tuyên huấn về đạo đức, tâm linh, bản chất tồn tại của chánh pháp.
Bát Kỉnh Pháp là một bờ đê, giúp ta hình dung được rằng, nó là một hệ thống pháp quy, mang tính chất bảo hộ tính cách thanh tịnh, trang nghiêm, thanh thoát của Tăng đoàn. Mặc dầu Ngài nói bằng ngôn ngữ rất văn chương, tinh tế nhưng ta phải hiểu ngầm ở trong đó nếu như không có Bát Kỉnh Pháp thì quan hệ quá thân mật giữa Tăng và Ni theo hướng hai chiều có thể tạo ra những vấn đề rắc rối. Phát sinh tình cảm dẫn đến những chấp trước mang tính cách hệ lụy, làm mất đi bản chất giải thoát của người xuất gia. Cho nên, có Bát Kỉnh Pháp để vai trò của hai bên được tách biệt.
Một bên được xem như là cao vĩ, một bên được xem như là bình thường. Khoảng cách cách biệt đó theo quan điểm của nhiều người được xem như là một yêu cầu căn bản để cho quan hệ đó không được tiến gần gũi hơn. Lý luận này theo chúng tôi có rất nhiều sơ hở. Trước nhất, người nữ chỉ thương những người nào hơn mình cái đầu, không thương những người nào ngang bằng với mình, lại càng hiếm khi nào thương những người dưới mình. Trong khi đó, người nam thì ngược lại, thương những người không bao giờ bằng mình cái đầu, thương những người có thể có sắc đẹp dịu dàng thướt tha. Tại vì cái đầu của họ đã làm cho họ căng thẳng, có thêm cái đầu nữa chắc chết sớm. Nếu như chúng ta lý luận theo cách thức đó, rõ ràng đó là một cách thức mời gọi giới nữ thương quí thầy nhiều hơn. Đặt cho quí thầy có vai trò được tôn kính quá lớn, lúc bấy giờ người nữ sẽ cảm thấy mình nhỏ hơn, thấp hơn, bé hơn, cơ hội phát sinh tình cảm lớn hơn. Những người chủ trương Bát Kỉnh Pháp do đức Phật nói có thể lý luận, giải thích từ từng điều khoản một và cho rằng nó có rất nhiều lợi ích như thế này.
Thứ nhất, Bát Kỉnh Pháp là một hệ thống bảo hộ an ninh và an toàn phạm hạnh của Tỳ-kheo-ni đặc biệt qua giới thứ hai, “không được an cư ở nơi không có chư Tăng”. Bởi vì, chư Tăng là những người thuộc phái mạnh có thể giúp đỡ chư Ni trong những tình trạng bị giặc giã hay hãm hiếp hay khó khăn về hoàn cảnh thú dữ v.v… Trong kinh đức Phật nói, một gia đình nào có quá nhiều thành viên nữ thì gia đình đó yếu đi. Vì thời đó là thời đại, mạnh ăn hiếp yếu, chân lý nằm ở trên quyền lực không phải nằm ở trên thực tại. Do đó, cần phải có chư Tăng bảo hộ, bởi vì vai trò của người anh “vai u thịt bắp” có thể bảo hộ được chư Ni. Đó là lợi ích thứ nhất các nhà chủ trương Bát Kỉnh Pháp là do Phật nói đã khẳng định, điều này rất thích hợp.
Thứ hai, Bát Kỉnh Pháp là một hệ thống bảo hộ quyền được giáo dục và quyền được học của Ni giới. Chẳng hạn như qua một số pháp, quý Chư ni thỉnh mời giáo giới của Chư tăng và những việc thấy, nghe, nghi… Hoặc thỉnh mời những việc liên hệ tới bố tác… hay thỉnh cầu trước khi tiếp nhận giới phẩm cổ túc Tỳ-kheo-ni. Như vậy, rõ ràng chúng ta thấy Ni giới khi chấp nhận Bát Kỉnh Pháp có được những lợi ích là được giáo dục, được học trong một bối cảnh văn hóa, khi người nữ bị quan niệm của Ấn Độ chỉ là sở hữu tài sản của người nam về phương diện sản xuất con cái, đảm bảo được tính cách hạnh phúc ở trong gia đình. Đặt nó trong một bối cảnh như vậy rõ ràng đây là một trong những điều cách tân, cách mạng lớn. Vì họ được học không phải họ chỉ có làm bếp, phục vụ chồng, sản xuất con cái.
Điểm thứ ba, bảo hộ phẩm hạnh của Tăng đoàn khỏi tình trạng ái nhiễm trước những quan hệ đẳng thức hay bằng quan hệ tương đồng giữa Tăng và Ni như chúng ta vừa nói đến. Điểm thứ tư, duy trì và đảm bảo được một Giáo hội thống nhất, không bị phân hóa theo hai hướng là Ni bộ và Tăng bộ. Một Giáo hội mới mang chất liệu tâm linh mới mà đức Phật thường định nghĩa chữ Tăng là hòa hợp chúng, đoàn kết, thương yêu, hỗ trợ, chăm sóc lẫn nhau. Rõ ràng việc thiết lập một Giáo hội thống nhất giữa hai giới tính nam và nữ là điều không thể tránh khỏi. Chấp nhận thiết lập một Giáo đoàn Ni bỗng dưng hình thức thể thống nhất đó bị tách ra làm đôi theo hình thức này hay hình thức khác.
Thứ năm, các giới pháp quy của Bát Kỉnh Pháp đặc biệt giúp cho Ni giới tu được hạnh bỏ bản ngã thông qua việc cung kính Tăng một cách tuyệt đối. Điều này quí thầy rất thích, tức là muốn cho giới nữ đi tu để có lòng tôn kính đối với Tăng bảo và mình là một thành viên, rõ ràng đâu ai không muốn. Điều đó thể hiện rất rõ, gần như hết bảy, tám điều trong số tám điều, điều nào cũng vậy, nhất là điều thứ nhất Tỳ-kheo-ni một trăm tuổi hạ cũng phải cung kính Tỳ- kheo- tăng dù mới thọ giới một ngày. Như vậy, chúng ta thấy về phía Ni họ được lợi lạc, có cơ hội rất quý báu được đặt ra trong một tình trạng là làm thế nào để giải phóng bản ngã, lòng tự cao, tự hào, tự đắc của mình, như vậy là phần tích cực nằm về phía họ. Vấn đề đặt ngược lại, lòng tôn kính của Chư ni đối với Chư tăng được tôn kính như vậy có ngã mạn hay không.
Trong lịch sử Phật giáo tại châu Âu có một nhà học giả có công dịch Trung Bộ Kinh rất tầm vóc, cuối cuộc đời trở thành một vị Tỳ-kheo-ni và suốt cuộc đời sống độc thân cao thượng. Bà là tác giả của rất nhiều tác phẩm Phật học, trong đó có một quyển mang tên là “Women in buddhism”, phụ nữ trong Phật giáo. Bà trình bày một cách rất khách quan, tại sao Bát Kỉnh Pháp có mặt. Bà lý luận, đề cập đến Bát Kỉnh Pháp. Nếu như chúng ta bỏ qua bản chất, đối tượng gia nhập vào liên đoàn lúc đó là một điều thiếu sót rất lớn.
Đối tượng gia nhập Tăng đoàn là ai, tức là hoàng hậu, kế đến là năm trăm bà hoàng và những người này được xem là đại diện cấp cao nhất về nữ giới ở trong sắc tộc. Vị nào cũng mang trong người họ hai dòng máu, hay nói cách khác là hai vai trò, vị trí xã hội. Vị trí cầm cân nảy mực của quốc gia và vị trí thuộc gia tộc Bà-la-môn cao cấp, có thể phát sinh ra thái độ khinh thường những vị Tỳ-kheo vốn xuất thân từ những giai cấp thấp. Nếu như ngay từ đầu, đức Phật không nhận mấy bà, có lẽ đức Phật khó có thể quản lý được Tăng chúng. Bởi vì, một bên là mẹ và những người thân, còn một bên là đồ đệ gồm những người xuất thân từ nhiều trường phái tôn giáo khác nhau. Chẳng hạn như là một ngàn đồ đệ của A Nan, Ca Diếp xuất thân từ nhiều giai cấp. Cơ sở lý luận đó tưởng chừng như rất vững chãi nhưng xem ra nó không có cơ sở ở chỗ đức Phật đã nói Sa-môn thích tử cũng giống như trăm sông nghìn rạch, có thể khác nhau về cấu hình địa lý, khác nhau về lớn và nhỏ, về hương vị và màu sắc chứ tuôn ra biển cả chỉ còn có một chất liệu duy nhất được gọi là “biển”, và bản chất của nó là “vị mặn”. Khi trở thành đệ tử của Như Lai Thế Tôn, không ai còn tự xưng tôi là sông Sat-đế-lợi, tôi là sông Bà-la-môn. Tôi là sông này sông nọ, mà chỉ là con sông Phật giáo, sông của giác ngộ và giải thoát, không có con sông thứ hai. Điều quy đó được toàn thể tăng chúng chấp nhận ngay từ đầu và do đó không có lý gì, năm trăm bà hoàng đi tu lại có thể cống cao ngã mạn.
Điểm thứ hai, khi chúng ta đọc vào các bản văn của Phật giáo Pali chưa bao giờ có một đoạn nào nói rằng bà là người cống cao ngã mạn. Các bà hoàng kia là những người ngang tàng, khinh bỉ người nam, chưa hề có. Như vậy, cơ sở lý luận để làm dẹp bớt tâm ngã mạn có thích hợp hay không. Có người nói vẫn thích hợp, bởi vì nhiều người nữ khi làm lớn rồi khó chịu lắm, mấy bà mà làm nhỏ không sao, làm lớn là thiên hạ chết hết. Như vậy, một điều quy về đạo đức, hướng đến đời sống tâm linh của Như Lai Thế Tôn, bậc tuệ giác chỉ nhằm cho một vài đối tượng được gọi là ương ngạnh đó hay sao, trong khi đó vô số Tỳ-kheo-ni trong lịch sử từ lúc đức Phật lập giáo đoàn cho đến bây giờ đâu thuộc về cá tính cống cao ngã mạn. Tại sao họ phải chịu chung một thân phận đó, phải gọi là bị thế này thế kia…
Về phương diện lợi ích của Bát Kỉnh Pháp, dĩ nhiên ta không phủ định nó có những giá trị tất yếu, nhưng cho rằng nó là của đức Phật nói, và là chân lý bất di bất dịch không thay đổi là một vấn đề khó có thể chấp nhận trong thời hiện đại. Khi bối cảnh của đa nguyên tôn giáo, đa nguyên triết học, đa nguyên tư tưởng và tự do ngôn luận. Không thể nào tránh khỏi tình trạng các tôn giáo khác, các nhà nghiên cứu khác phê bình chỉ trích đức Phật, nếu như chúng ta chấp nhận rằng Bát Kỉnh Pháp do chính đức Phật nói.
Những điều bất lợi về Bát kỉnh pháp
Khi chúng ta phân tích về những điểm bất lợi của Bát Kỉnh Pháp sẽ thấy vấn đề khác. Bất lợi thứ nhất, chúng ta phải giải phóng tính cách gượng ép hay áp đặt rằng tác giả chính là Như Lai Thế Tôn. Bằng không mọi lý luận đi ngược lại Bát Kỉnh Pháp làm cho vai trò, vị trí của Như Lai Thế Tôn bị giảm thiểu rất nhiều. Chúng ta là những người xuất gia, hoặc những Phật tử, đều là những đệ tử thuần thành của Như Lai Thế Tôn, bất quá họ có thể có những phản ứng nho nhỏ trong nhà là hết. Đối với những tôn giáo khác, nhất là những tôn giáo đang muốn thay thế vai trò lãnh đạo tâm linh của đạo Phật ở châu Á có cái nhìn hoàn toàn cá biệt. Các linh mục trước 1975 đã từng viết sách so sánh về những điểm giống và khác giữa đạo Phật và đạo của họ. Họ đã nêu ra một điểm mấu chốt, đó là đạo Phật chà đạp nhân phẩm phụ nữ lớn nhất chưa từng có trong lịch sử của nhân loại. Sự chà đạp đó được nêu ra qua hai sự kiện.
Thứ nhất, thái tử Tu Đại Noa đã cúng dường không đốt nhang vợ của mình cho những ông Bà- la- môn, đó là một hình thái biếm vào lầu xanh. Tức là các ông chồng Phật giáo đã biến vợ của mình trở thành những người phục vụ lầu xanh theo tính cách “Sống thì làm vợ khắp người ta, hại thay thác xuống làm ma không chồng”.
Thứ hai, các quy định về Bát Kỉnh Pháp làm cho vai trò của người Ni không thể nào có những đóng góp thích ứng. Trong khi đó, họ vẫn được đào tạo ra từ những trường lớp chính quy, học cùng một lớp với quí thầy, nhưng không có cơ hội đóng góp vào những vai trò tương thích. Như vậy, đạo Phật đã đào tạo ra rất nhiều thế hệ Ni nhưng sự đào tạo đó vứt đi hết, đâu có xài, vì đâu có cơ hội cho họ phục vụ. Do đó, đạo Phật là đạo không có cái nhìn về các tiềm năng và giá trị đóng góp của con người, đặc biệt là người nữ.
Hai lý luận đó làm cho giới học đường trước 1975 lúc bấy giờ choáng váng, bởi vì họ nghe đạo Phật là đạo bình đẳng nhưng khi phân tích về bình đẳng. Họ đưa những sự kiện này vô là chà đạp phụ nữ, nói theo ngôn ngữ nhân quyền hiện đại, đó là sự vi phạm nhân quyền nguy hiểm nhất, bởi vì ở phương Tây người nữ là số một, đàn ông đứng sau phụ nữ. Vì vậy, các ngữ cảnh đó có thể là nó rất nhạy cảm đối với vấn đề Ni và tăng ở trong truyền thống Phật giáo. Đối với chúng ta nó có thể không là gì cả, nhưng đối với họ chúng ta không thể cấm họ có cái nhìn khác với chúng ta.
Cho nên, ta cứ thử đặt vấn đề đó trong bối cảnh của toàn cầu hóa thì nó khác đi nhiều. Nếu đức Phật là tác giả của Bát Kỉnh Pháp thì chúng ta thấy có hai vấn đề đặt ra, liên hệ đến lý luận một và lý luận hai của A Nan trong cuộc đối đáp với đức Phật, đó là tính cách từ bi và tuệ giác của đức Phật không còn nữa.
Thứ nhất, đức Phật không thương tưởng Di mẫu của mình và đã có những biểu hiện rất mâu thuẫn với những gì mình đã chủ trương về lòng hiếu thảo. Dĩ nhiên, có nhiều bài kinh nói về công đức của người xuất gia và Ngài cho rằng hiếu thảo lớn nhất là trở thành người đi tu. Báo hiếu lớn nhất là báo hiếu về phương diện tinh thần. Trong khi đó mẹ của Ngài muốn trở về đời sống tinh thần tâm linh cao nhất, Ngài không chấp nhận. Như vậy, học thuyết đó có mâu thuẫn hay không. Dĩ nhiên, theo cơ chế này hoàn toàn có mâu thuẫn, do đó lòng từ bi và sự hiếu thảo có thể bị lung lay, không đảm bảo được một trăm phần trăm.
Thứ hai, khi đức Phật cho phép Ni giới vào trong tăng đoàn thì Ngài cho một cách bất đắc dĩ qua sáu lần thỉnh cầu, ba lần của Di mẫu và ba lần của A Nan. Người có lòng từ bi thật sự không cần phải năn nỉ. Năn nỉ là cơ chế của các thần linh Tôn giáo ngoại đạo, không phải là cơ chế của lòng từ bi đạo Phật. Nó thương tổn lòng từ bi ở một điểm nữa là Ngài đã tạo ra một bản án nghìn đời, vô số đời, vĩnh viễn kiếp về sau cho đến lúc nào cơ chế đó được giải thể thì thôi.
(Còn tiếp)
Trần Ngọc Thảo (ĐSHĐ-009)