Tôn Sư sanh năm 1920 tại tỉnh Hòa Bình, Bắc Việt. Vì mang trong người 2 dòng máu Pháp–Việt, nên thế danh Tôn Sư là Nguyễn Thị Ni và tên tiếng Pháp là Eugénie Catallan. Cha tên Etienne Catallan. Mẹ tên Nguyễn Thị Đắc.
Lấy xong bằng tốt nghiệp Diplôme D’étude Primaire Supérieur, Tôn Sư đi dạy học. Ngay khi còn tại gia, Tôn Sư đã biểu lộ lòng từ bi. Ngày ngày dạy học, ngoài thời giờ Tôn Sư vào các bệnh viện, trại mồ côi, dưỡng lão để giúp đỡ an ủi động viên những mảnh đời bất hạnh.
Cơ duyên được biết Phật pháp là do Sư cụ Thích Tuệ Nhuận. Bài pháp đầu tiên được nghe Sư cụ giảng tại chùa Quán Sứ là kinh Lăng Nghiêm, phẩm Quán Âm Quảng Trần và chương Đại Thế Chí niệm Phật. Lãnh hội được sự vi diệu của Phật pháp đem lại niềm an vui cho mọi người, Tôn Sư in những cuốn kinh nhỏ phát cho những Phật Tử tới chùa tụng kinh hàng ngày.
Quy y với Hòa Thượng Pháp Chủ đương thời là ngài Thích Mật Ứng, được Ngài đặt cho pháp danh là Hải Triều Âm.
Tôn Sư thành lập Gia Đình Phật Tử, mở các hội trưởng lão, thanh thiếu niên, nhi đồng ở Hà Nội, Hải Phòng. Ngoài ra Tôn Sư còn viết báo cho tòa soạn báo Bồ Đề của Sư cụ Thích Tuệ Nhuận dưới bút hiệu là Cát Tường Lan. Các bài pháp rất thực tế, đưa Phật pháp vào tư tưởng thanh thiếu niên thời bấy giờ.
Năm 29 tuổi, thâm ngộ lẽ vô thường, dù phước thiện thế gian có hay đến đâu cũng không thể đưa đến giải thoát. Tôn Sư xuất gia với Hòa Thượng Thích Đức Nhuận ở chùa Đồng Đắc, Hà Nội. Y chỉ và thọ giới với Ni Sư Tịnh Uyển, chùa Thanh Xuân, làng Phùng Khoang, Hà Nội.
Đến năm 1954, vâng lời Hoà Thượng di cư vào Nam. Nhập chúng ở chùa Dược Sư, Gia Định, Sàigòn; vừa lo tu học, vừa hầu mẹ già bị bệnh bán thân, vừa lãnh vịệc chuyên giảng dạy cho Phật Tử. Tôn Sư tinh trì giới luật, nghe kinh Kim Cang lãnh ngộ được tông chỉ niệm Phật. Tu quán Tứ Niệm Xứ để khai tuệ giác tỉnh, sở đắc về bộ kinh Lăng Nghiêm để khai tri kiến Phật.
Sau khi mẹ mất, vì muốn báo hiếu công ơn mẹ, thấy rằng không gì bằng công đức tu hành, Tôn Sư nhập thất 5 năm ở chùa Vạn Đức, Thủ Đức, Sài Gòn chuyên tâm niệm Phật. Sau chuyển lên Phú An, Đức Trọng, Lâm Đồng nhập thất 7 năm tại ngôi tịnh thất nhỏ Linh Quang, những mong nhập Niệm Phật tam muội. Nhưng từ hoài bi nguyện độ sanh không bỏ, tại đây Tôn Sư bắt đầu độ chúng, lúc đó chỉ có vài chục người. Đến nay đã thành lập 8 chùa: Ni Liên, Linh Quang, Liên Hoa, Viên Thông, Hương Sen, Dược Sư, Lăng Nghiêm, Bát Nhã. Đủ các căn cơ, già trẻ, lớn bé cho đến người tàn tật, trẻ mồ côi Tôn Sư đều đưa tay tế độ, mong họ được kết duyên với Phật pháp. Phật Tử quy y thì không biết bao nhiêu mà kể.
Mặc dù giác biết chúng sanh huyễn có, vẫn dùng pháp huyễn để độ chúng sanh. Ngày ngày lên lớp giảng dạy, từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều, lời lẽ uyên bác, chỉ mặt phải, răn mặt trái. Nhắc đi nhắc lại, cặn kẽ từng lời, mong sao cho các con thấm nhuần kinh pháp. Lời giảng dạy của Tôn Sư ai nghe cũng thấy đúng với tâm trạng của mình, hợp thời, hợp cơ, giản dị dễ hiểu, lại rất thực tế.
Đối với đại chúng, Tôn Sư khiêm cung, giản dị, từ hòa; nhưng nghiêm khắc đưa đại chúng vào khuôn khổ giới luật, nội quy. Sửa trị những xấu ác, nhưng bao dung những lồi lầm, chỉ cốt cho đại chúng thành những bậc pháp khí trong Phật pháp.
Tôn Sư một lòng lo cho đại chúng, từ tinh thần đến vật chất, hy sinh sức khỏe thời giờ, tận tình từ đời sống tạm thời đến rồi đi, tới đời sống đạo vị lợi ích vĩnh viễn trong kiếp tương lai. Suốt ngày trọn đêm không giờ phút nào Tôn Sư ngơi nghỉ trong bổn phận tự giác giác tha.
Tấm gương vô ngã vị tha của Tôn Sư, không lời lẽ nào có thể kể hết được. Những hạnh đức của Tôn Sư đã gieo vào tâm thức chúng tôi những ấn tượng khó phai. Lúc Tôn Sư ở Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, Sài Gòn, học chúng đổ về học pháp rất nhiều, không đủ chỗ, Tôn Sư sửa lại phòng tắm làm chỗ nghỉ cho mình, nhường phòng mình làm chỗ ở cho Chúng. Còn nhớ những ngày đông giá rét ở xứ lạnh cao nguyên, ai ai cũng co ro lo tìm sự an ổn cho mình. Riêng Tôn Sư, áo mền ấm áp nhường tất cả cho các con, ráp những tấm vải thô vừa nặng, vừa chẳng đủ ấm làm phần của mình.
Thấy đàn hậu lai trí kém, tuệ ít, Tôn Sư toát yếu lại những bộ kinh Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, luật Tỳ-kheo-ni v.v… lời văn giản dị, xác thực để học chúng dễ nắm được yếu chỉ của kinh luật. Mắt đeo kính, dưới ánh đèn dầu, Tôn Sư miệt mài đọc sách dịch kinh. Từng bộ kinh Hán văn dày cộm đầy những chữ, với bộ óc tuổi già thật mỏi nhọc, Tôn Sư vẫn hết sức cố gắng cặm cụi dịch sang Việt ngữ để đàn hậu lai có sách học tập. Tôn Sư đã biên dịch, biên soạn, toát yếu gần 100 đầu sách và in ấn không biết bao nhiêu mà kể. Bậc chân tu liễu đạo thường ẩn danh, nên mỗi một cuốn sách viết ra Tôn Sư không để tên mình bao giờ, mà lấy tên của các đệ tử đặt vào sách. Ấn tống các kinh Di Đà, Phổ Môn, Dược Sư gởi khắp Bắc, Trung, Nam để các Phật Tử có kinh tiếng Việt. Mang bệnh giật cơ trên đầu mấy chục năm nhưng chưa từng vì đó mà nghỉ ngơi. Có lần vì muốn làm cuốn “Hai Cánh Nhà Ni” cho các Tỳ-kheo-ni mới thọ giới nắm vững giới điều, Tôn Sư đã thức suốt cả tháng.
Một lòng tôn kính Phật Pháp Tăng, gặp bất cứ hình tượng Phật nào Tôn Sư đều thành kính đảnh lễ. Tận tình học pháp, nghiên cứu pháp, truyền bá giáo pháp, cả đời Tôn Sư nêu cao tấm gương vì pháp quên thân. Đối với Tăng, Ni, Tôn Sư khiêm cung, kính trọng, dạy hàng đệ tử chúng tôi suốt đời phải thực hành Bát Kính Pháp; dạy chúng tôi nếp sống lục hòa, trên kính dưới nhường, lấy Giới Định Tuệ làm sự nghiệp chính của mình.
Tôn Sư thường răn nhắc chị em phải tinh tấn tu hành để đền ơn thí chủ. Đời sống giản dị, tiết kiệm từng hạt gạo, tấm vải. Thường răn dạy chúng tôi không được phung phí vật dụng Tam Bảo, phải biết yêu tiếc như giữ tròng con mắt. Tôn Sư kiệm đức, kiệm phước trong từng hành động; 70 tuổi vẫn tự giặt áo, giăng mùng, không phiền nhọc một người hầu hạ. Mãi đến 80 tuổi, Phật sự đa đoan, tuổi già mỏi nhọc, Tôn Sư mới cho hàng đệ tử chúng tôi trợ giúp. Đến nay già lão, thân suy yếu lại bệnh nhưng chưa bao giờ Tôn Sư hiện tướng mỏi nhọc buồn phiền, gặp ai cũng nở nụ cười từ ái. Ai đến gần Tôn Sư đều cảm nhận được sự mát mẻ từ bi, tất cả bao phiền não đều tiêu tan.
Bởi vì thấu đạt được chân lý “nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”, nên con sâu con kiến, hàm linh bão thức, các loài chúng sanh, đã có duyên với Tôn Sư đều được thừa hưởng ân đức Tôn Sư ban bố, được thấm nhuần pháp vị. Lòng từ bi của Tôn Sư không chỉ nhân loại được hưởng mà thấm nhuần đến từng cỏ cây, loài vật. Với chúng sanh, đói Tôn Sư cho ăn, khát Tôn Sư cho uống, rét Tôn Sư cho áo mặc, niệm Phật để nó kết duyên với Phật pháp từ đời này đến đời sau. Tôn Sư răn dạy chúng tôi “Đó chính là những huynh đệ chúng ta từ kiếp trước, chỉ vì một chút lỗi lầm phải đọa làm thân chó, nên các con phải tận tình thương xót”.
Xếp đặt cho các con trong hiện tại đã đủ mọi bề khó khăn, lại còn lo mai này Thầy về cõi Phật, các con nương tựa vào đâu? Tôn Sư làm chùa, xây dựng cho hậu lai nơi ăn chốn ở. Nhưng thế sự vô thường, không bền chắc, chỉ có Phật pháp mới là nơi nương tựa vững vàng nhất. Tôn Sư vì đàn hậu lai mở ra một đường lối tu hành rõ ràng. Năm 1988, Tôn Sư viết một bài di chúc để lại cho đàn hậu lai chúng tôi. Đó vừa là lời dặn dò, vừa là con đường tu hành của bản thân Tôn Sư và cũng là kim chỉ nam chỉ lối đưa đường cho đàn hậu lai chúng tôi trên bước đường tu học, gọi là BỐN MÙA HOA GIÁC.
Qua bao thăng trầm thế sự, Tôn Sư vẫn như núi kia bất động trước cảnh đời dâu bể, vẫn cúi xuống tận lực đùm bọc che chở, nuôi dưỡng thánh chủng cho hàng đệ tử chúng tôi. Sức an định của Tôn Sư như núi cao bất động trước phong ba của tám gió. Trí tuệ của Tôn Sư như trăng sáng chiếu soi, phá tan bao hắc ám của đời sanh tử. Dù nói bao nhiêu cũng không đủ lời để tán dương hạnh đức Tôn Sư.
Chúng tôi mạo muội viết lên ít dòng để nêu lên một phần nào công hạnh của Tôn Sư, mong rằng những người hữu duyên được mông ân pháp vũ.
Đây hương giới đức bện tình son
Đây gởi bao lòng trẻ chúng con
Quà dâng Tôn Sư, niềm tin kính
Pháp giới đồng chung hưởng phước ân.
Ao sen bát đức hoa đua nở
Thắm cõi trời Tây nguyện góp phần.
(*)Đại Lão Ni Trưởng Thích Nữ Hải Triều Âm đã an nhiên thu thần thị tịch hồi 11 giờ 56 phút ngày 24 tháng 6 năm Quý Tỵ, nhằm ngày 31 tháng 7 năm 2013 tại chùa Dược Sư, thôn Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam; trụ thế 94 năm, 60 hạ lạp.