Thức và số lượng các thức
a) Thức là gì?
Nhận biết chúng qua các hoạt động. Thức = cái gì đang nhận thức. Nhận thức các đối tượng sai biệt như sáu trần.
– Trong nhận thức: Căn, cảnh, thức xuất hiện. Ở sát-na khác, cũng tiếp tục tương tự.
– Giai đoạn 1: Đối tượng chưa được cấu trúc (hiện lượng): các giác quan chỉ mới tiếp xúc dữ
liệu. Giai đoạn 2: Đối tượng được cấu trúc, phát sinh nhận thức phán đoán (phân biệt).
– Thức = sự thông tri cá biệt, nắm rõ đối tượng cá biệt.
b) Số lượng các thức
– Phật giáo Nguyên thủy: Chỉ có sáu thức giác quan. Tâm, ý, thức thuộc thức uẩn.
– Đại thừa thời kỳ đầu như Kinh Bát-nhã, các nhà Trung Quán: đề cập 6 thức như Nguyên thủy.
Chứng minh 2 thức mới: Dẫn Kinh về Như Lai tạng (tathāgarbha):
– Luận Đại thừa trang nghiêm kinh (T31n1604, tr.591a8)
– Luận Hiển dương thánh giáo (T31n1602, tr.581b5)
– Trong Nguyên thủy: tâm ý thức là một thực thể với ba chức năng, kinh nghiệm, lưu trữ và dẫn đến kết quả. Tâm là chủ thể nhận thức, dẫn đầu các hành động thân và lời nói.
– Du-già: Các thức đều có tên chung là tâm ý thức. Căn cứ chức năng, thức a-lại-da là tâm (citta) vì nó tích lũy (cinoti, acinoti, upacinoti). Mạt-na gọi là ý (manas), vì nó chấp dính (manyate, abhimanyate).
– Luận Câu Xá 4: Thể của tâm ý thức là một. Có ba
chức năng: Tâm là tập khởi, ý là tư lương, thức là
nhận thức.
Tâm (citta) = tập khởi (thu nhận và xử lý kinh nghiệm,
ảnh hưởng của nó. Trái tim => suy nghĩ.
Động từ căn “ci” = “cinoti” tích lũy, chứa nhóm. Hoặc
“cetati = tri giác, quan sát. Nền tảng của đời sống tinh
thần. – Hoa Nghiêm : Tâm như họa sĩ khéo, vẽ hình
ảnh ngũ uẩn.
Ý (manas) = tư lương, là trung tâm cái tôi, sự chấp dính. Nương vào thức Alaya mà hoạt động. Hoạt dụng : bảo vệ (liên minh) và kháng cự (bất liên minh).
Thức = nhận thức đối tượng. Phân chia chức năng của thức uẩn. Căn nhà có 3 cửa sổ với 3 đèn màu.