Ý nghĩa duy thức
Biện Trung Biên: Cái tồn tại [trong tâm con người] là hư vọng phân biệt
(abhutaparikalpa).
– Tụng 17: Sự biến thái của thức chính là sai biệt. Cấu trúc sai biệt không tồn tại thật.
Nên [các ý niệm trong tâm] đều do thức biến hiện.
– Cái tồn tại thực trong thế giới nhị nguyên chính là “không tính” (śūnyatā).
– Tồn tại trong thế giới là tồn tại như dữ liệu cho thức nhận biết, phân biệt.
– Luận này gồm 3 phần (tam năng biến) để thành lập duy thức, nên gọi là Thành Duy thức. Đây là phẩm nền tảng hình thành học thuyết duy thức (The treatise on the
Establishment of the Doctrine of Consciousness-only). Ba biến thái (ba biến hiện của tâm thức) gồm:
a) Thức kho tàng (ālaya) = thức dị thục (vipāka) = nhất thiết chủng (sarvabīja): Tụng 2,3, 4.
b) Thức chấp ngã (manas): Tụng 5, 6, 7. Đồng hóa ngã chấp, chính mình, sở hữu.
c) Sáu thức giác quan: Tụng 8-16. Còn gọi là thường thức.
Nhị Thập Luận của Thế Thân: “Cái đó duy chỉ là thức, vì ảnh hiện của đối tượng không có thực, như người bị bệnh bạch nội chướng, ảo giác về mặt trăng thứ hai.
Tụng 17 hình thành giáo nghĩa duy thức.
Tụng 18-19 nói về duyên khởi của duy thức, duyên và quả.
– Tụng 20-25 nói về ba tự tính, tam vô tính.