Trong kinh, Đức Thế Tôn thường dạy: “Này các Tỳ kheo, trên con đường tìm về Bảo sở, có một vật rất là quý báu đó là: DUY TUỆ THỊ NGHIỆP.”
Ngài vào đời với bao điều nguyện ước
Đưa quần sanh vượt khỏi bến sông mê
Mong sanh linh quay đầu hướng trở về
Trí huệ phát còn hơn màu trăng sáng
Mặt nước trong ánh trăng ngời xán lạn
Bao nhiêu dòng là ngần ấy vầng trăng.
Thật vậy, trí huệ phát ra là do tư duy Thiền định. Tôn chỉ của Đạo Phật, có trí huệ là có tất cả. Đức Thế Tôn của chúng ta đạt quả vị Vô thượng Bồ đề, là đỉnh cao của trí huệ. Quả Vô thượng Niết bàn là diệu dụng của trí huệ. Trong Tam vô lậu học, Giới, Định là hạt, là cây, là cành, là lá. Mà Huệ là hoa, là trái. Tu Giới, tu Định cốt để có Huệ, nếu tu mà không phát sanh trí huệ là không có khả năng nhận thức được chân lý. Là đệ tử Phật quyết định phải hoàn thành con đường tự giác, giác tha, mới mong đạt đến giác hạnh viên mãn. Người tu có trí huệ, có đạo đức, có được sự giác ngộ thì chúng sanh nương vào đó mà tu học, cùng nhau hướng đến chỗ an vui giải thoát, bằng không được như thế, gọi là “nhứt manh dẫn quần manh”, nghĩa là một người mù dẫn một đám người đui, trước sau gì cả thầy trò cũng sa hầm sụp hố. Kinh điển nói hạng người đầy đủ trí tuệ, đạo đức gọi là “Long tượng trong Thiền gia”. Người Tu sĩ là sứ giả của Như Lai phải cố gắng “Văn nhi tư, Tư nhi tu“, tức là phải học Chánh pháp, hành Chánh pháp và sống theo Chánh pháp. Được như vậy mới xứng đáng là trang Thích tử, “tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự”, rẽ đường cho chúng sanh thoát khỏi rừng vô minh tối tăm nguy hiểm.
Hành trì Chánh Pháp Như Lai
Pháp môn Phật dạy đại tài xiết bao
Cứu người vượt khỏi trần lao
Ra công tu học đường vào Chân như.
Trong kinh Pháp hoa, Đức Phật dạy rằng: “Cái trí Bát Nhã, Phật tánh chúng sanh sẵn có “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”, nghĩa là tất cả chúng sanh đều có tánh Phật. Tất cả sen nở, sen búp, sen vừa nhô khỏi mặt nước hay sen còn dưới bùn, vẫn đầy đủ cánh, nhụy, gương, hạt. Nhưng chỉ vì chúng sanh trôi lăn trong sanh tử, luân chuyển trong sáu đường, bị bụi trần bao phủ, nên tấm gương kia không tỏa ra ánh sáng tự nhiên của nó. Nay nhờ Đức Thế Tôn chỉ dạy phương pháp lau vén bụi trần, bằng cách học hỏi Chánh pháp của Phật, thực hành Chánh pháp của Phật, hạ thủ công phu, tư duy quán chiếu, trí huệ phát sanh, đó là hoa, là trái của sự tu học, là trở về bản thể Chơn như vốn có của mình. Khi trí tuệ phát sanh ta nhận thấy “Ngũ uẩn bổn giai không” (sắc, thọ, tưởng, hành, thức uẩn), có mà không thật có, các pháp do nhiều nhân, nhiều duyên hợp thành. “Nhứt thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh. Như lộ diệc như điển. Ưng tác như thị quán”. Pháp môn của chư Phật do một phép Bát Nhã mà sinh ra tám muôn bốn ngàn trí huệ, bởi vì sao? Vì chúng sanh có tám muôn bốn ngàn trần lao (phiền não). Nếu không có trần lao, thì trí huệ thường hiện ra, chúng sanh thường sống với thể tánh thanh tịnh của chính mình, mặt nước biển lặng yên, nào có sóng ngòi lô nhô trên mặt trùng dương xanh ngắt vô tận!
Hiểu rõ pháp này rồi thì không còn vọng niệm, lòng không nhớ nghĩ, không dính mắc lục trần, không sanh điều giả dối, lấy trí huệ mà xét soi sự lý, đối với hết thảy pháp không chấp, cũng không bỏ, tức tâm mình rỗng rang như hư không. Cái trí Bát nhã vốn không lớn, không nhỏ, chỉ vì cái tự tâm của chúng sanh mê muội chẳng đồng, tâm không giác ngộ là chúng sanh (vì còn mê muội), một niệm trở về thể tánh tịnh minh, chúng sanh ấy là Phật. Kinh Bồ tát giới nói rằng: “Cái bổn nguyên tự tánh của ta vốn trong sạch, nếu biết tâm mình, thấy tánh mình, thì thành Phật đạo.”
Muốn đạt tánh đức đại trí huệ ấy, trước hết phải đầy đủ năm đức tánh sau đây:
– Phải có tâm từ bi hỷ xả.
– Phải giữ tịnh giới tinh nghiêm.
– Phải thành tâm nhẫn nại.
– Phải tu hành tinh tấn.
– Phải thiền định kiên cố.
Niệm thấy tánh bổn lai của mình, công phu tu tập thì trí huệ trong tâm mình phát ra. Cái diệu dụng của trí Bát nhã chiếu phá thật hoạt bát, có thể chiếu phá vô minh phiền não, tiêu diệt cả thảy hạt giống sanh tử luân hồi.
Trí huệ phát do tâm tinh tấn
Rằng công phu tu tập tự thân
Chiếu soi thể tánh trong ngần
Vô minh chuyển hóa cấu trần sạch trơn.
Suốt ngày chúng ta vẫn phải luân hồi xuống lên trong ba cõi sáu đường. Ví dụ lúc ngồi thiền, tâm ta thanh tịnh, không bị phiền não quấy rối, lúc ấy là ta đang sống ở thiên đường (cõi trời). Khi xả thiền, va chạm với người xung quanh, tham, sân, si nổi lên, lúc ấy là ta đang sống ở cảnh giới A tu la, địa ngục, ngạ quỷ hay súc sanh. Cho nên, chúng ta chỉ cần chăn tâm, tỉnh thức, đừng để lục trần vào nhà, làm quấy nhiễu tâm ta. Bởi vì Bồ đề là tự tánh của tâm ta, trí huệ luôn luôn được sáng tỏ. Khi tâm ta khởi lên vọng niệm, ta biết vọng không theo. Phật pháp tại thế gian, không xa rời thế gian mà được giác ngộ.
Mảnh trăng này là ánh trăng muôn thuở
Treo lưng trời soi chiếu vạn hàm linh
Vạn hàm linh, đều nằm trong tứ tướng1
Trăng muôn đời chẳng bị cảnh diệt sinh.
TKN. Phước Giác
- Tứ tướng: Hữu tình: sanh, trụ, dị, diệt (sanh, lão, bệnh, tử). Vô tình: Thành, trụ, hoại, không.