Chỉ khi bạn phóng to mình vào một không gian khác lớn hơn, bạn mới có thể nhận biết được sự tồn tại của chính mình, và nhận ra loại tồn tại này mong manh và nhỏ bé biết bao…
Tôi có người bạn mở một nhà hàng Pháp nho nhỏ tại Tam Lý Đồn. Một hôm, anh đã kể cho tôi nghe một câu chuyện mà không thể gọi là câu chuyện. Anh nói: Ngày nọ, tôi dẫn con trai đến nhà hàng, bảo nó đứng chơi tại chỗ này và dặn dò nó:
– Con xem đồ chơi nhé, ba đi vệ sinh.
Thằng bé tay không ngừng mó đồ chơi nhưng đầu vẫn gật một cách ngoan ngoãn, tôi cảm thấy yên tâm. Khi tôi trở lại, phát hiện con trai mình được bao quanh bởi một nhóm người, nó đem chìa khóa xe, máy tính xách tay, điện thoại di động của tôi ném sang một bên, rồi ôm chặt trong lòng món đồ chơi siêu nhân mà nó thích, miệng không ngớt hỏi chàng thanh niên đang mỉm cười nhìn nó một cách thăm dò:
– Chú ơi, chú là người xấu phải không?
Lúc đó, tôi đứng bên ngoài xem nghe tất cả, trong lòng tự nhiên phát lãnh – mình có thể cũng giống hệt con trai mình, món đồ mà chúng ta xem trọng và yêu thích thật ra không đáng một đồng xu phải không?
Vào buổi tối, chúng tôi cùng nhau đi uống trà Phổ nhĩ Phụng Hoàng Đà1, uống trà Thiết Quan Âm có hương vị nhẹ, uống Lão tùng Thủy Tiên cổ xưa được sấy bằng tay. Sự nghi ngờ về giá trị này vẫn còn lưu lại trong ký ức của tôi một cách rõ ràng, giống như mùi hương của Lão tùng Thủy Tiên2 hàng trăm năm, ngọn lửa tuy âm ỉ nhưng đường nét rõ ràng, chùm tia lửa nhỏ đó vẫn sáng lấp lánh và tỏa trên bầu trời đêm!
Mãi cho đến một ngày, tôi đọc được một đoạn văn của Ngãi Vị Vị (艾未未1957-?), nghệ thuật gia đương đại: “Nếu bạn tự phóng to mình vào trong sự quan hệ lớn hơn, bạn sẽ phát hiện tất cả các trải nghiệm của bạn chỉ là một trò chơi, sẽ luôn có một điều gì đó, một số người nào đó làm cho bạn hạnh phúc một chút, khổ đau một chút, một lần phản ứng hóa học, để thể nghiệm mỗi cái nháy mắt là quan trọng nhất”. Lúc này trong lòng thoải mái, buông xuống rất nhiều sự chấp trước, bao gồm cả trà.
Khi lần đầu tiên uống trà, đã bị nó làm cho mê hoặc. Tôi thích trà nặng lửa, nặng mùi, hương thơm độc đóa, vị mượt mà, đậm đặc, cảm giác thơm nồng, lan tỏa khắp nơi. Đời sống của chúng ta chung quy cũng có một giai đoạn như vậy, đôi khi đơn giản thuần khiết, có lúc lỗ mãng cộc cằn, liều lĩnh và tràn đầy năng lượng. Thích uống loại rượu mạnh nhất, cưỡi con ngựa nhanh nhất và uống tách trà đậm nhất. Sinh mệnh chẳng qua là một quá trình dùng để hưởng thụ, dùng để thể nghiệm, dùng để đốt cháy. Trà không đắt đỏ không uống. Thật vậy, khoảng thời gian đó, tôi bị rơi vào tình trạng theo đuổi trà không ngừng: Trà Ô long, nếu không phải trà mới đang mùa, không phải trà tinh hoa cao cấp, không có hương trà thơm lừng, thì có thể phù hợp để gọi là “trà Ô long” không?
May mắn thay, khoảng thời gian này trôi qua nhanh chóng. Và cũng may mắn thay còn có loại trà giống như Lão Tùng Thủy Tiên ngon như vậy, có thể giáo dục chúng ta, cái gì gọi là lửa cũ đủ ăn, quay về nguồn cội. Trà ngon đúng là có một loại “ngon”, bởi bản thân của nó mang lại cảm giác thuần phác mộc mạc của thiên nhiên điêu khắc. Con người sau ba mươi tuổi, mỗi khi chúng ta soi gương, luôn luôn thương cảm vô hạn, bạn sẽ nhìn thấy rất nhiều nếp nhăn bên khóe mắt, tóc trắng điểm đầy trên đầu. Tuy năm tháng phú cho chúng ta sự già nua, nhưng cũng cho chúng ta một loại thiên tư bẩm sinh để phân biệt được cái “ngon” này. Khi bạn gặp tách trà ngon, bạn gần như có thể dựa vào trực giác để cảm nhận rằng, đó là sự mộc mạc thuần phác hình thành một cách tự nhiên. Tất nhiên, bạn cần uống. Cho dù là loại trà nào, cho dù hình thức có đẹp đẽ như thế nào, hoặc có thuận mắt hay không, bạn luôn phải tự mình nấu nước pha trà, tự mình nhìn ngắm màu sắc của trà, tự mình nếm thử hương vị của trà, mới có thể thực sự biết được ngon dở.
Trong lịch sử Thiền tông Trung Quốc, vào thời nhà Đường, có một người cự phách trong chốn Thiền môn, đó chính là Thiền sư Triệu Châu Tùng Thẩm (赵州从谂禅师778-897). Sư có lưu lại công án “Uống Trà Đi” và công án này đã ảnh hưởng vô số người trong thiền trà: Có hai vị Tăng đến tham quan Quan Âm Viện Triệu Châu, Thiền sư Triệu Châu hỏi một trong hai người:
– Thầy đến đây rồi phải không?
– Chưa từng đến.
– Uống trà đi.
Lại hỏi vị Tăng đứng bên cạnh:
– Thầy đến đây rồi phải không?
– Thưa, con đã từng đến.
Thiền sư vẫn nói:
– Uống trà đi.
Viện chủ ngồi bên cạnh không hiểu nổi, liền hỏi:
– Chưa đến cũng mời uống trà, đến rồi vì sao cũng mời uống trà?
Thiền sư Triệu Châu quát một tiếng lớn:
– Viện chủ!
Viện chủ vội ứng tiếng:
– Dạ! Thiền sư Triệu Châu nói:
– Thầy cũng uống trà đi!
Về sau, rất nhiều Đại đức Thiền tông đều dùng công án này để nhắc nhở chỉ bảo các học nhân, cũng có vô số người học thiền tu thiền, nhân công án này mà khai ngộ đắc đạo. Về điển cố “Uống Trà Đi”, mọi người đã thực hiện các loại lý giải, các loại suy đoán. Theo sự hiểu biết của tôi, “uống trà đi” là trước hết phải “uống”. Bạn nghe người khác kể diện mạo của Triệu Châu như thế nào, xem chân dung khắc trên bia như thế nào, xem tướng mạo tố chất gì gì đó của Triệu Châu, những thứ đó đều không phải là Triệu Châu. Bản thể, đạo lý chân thiết của Triệu Châu, không ở trong tháp ngà, vốn là ở trong “Trà Thiền Nhất Vị”.
Cho nên, “Vị vô vị”, đầu tiên cần phải tiếp xúc, cần phải trải nghiệm một cách thực tế, dùng sự chân thật trong đời sống để va chạm, để đi đến “Vị”! Đây là “Vị” thứ nhất.
“Vị Vô Vị” trong Chương 63 của “Lão Tử” có nói đến “Vi vô vi, Sự vô sự, Vị vô vị” (为无为,事无事,味无味). Nghĩa là: Nếm cái Vô Vị từ trong Vị, lại từ Vô Vị thể hội cái gọi là Vị. Pháp sư Hoằng Nhất (弘一法师1880-1942), nhà Giáo dục mỹ thuật, nhà Thư pháp, nhà Âm nhạc nổi tiếng, một danh Tăng đương đại: Con người của Sư, tranh họa của Sư, thư pháp của Sư, âm nhạc của Sư đều đạt đến cảnh giới trác tuyệt. Là một bậc cao Tăng như vậy, mà đời sống của Sư lại rất bình dị, đạm bạc. Một hôm, có người bạn thân đến thăm Sư trước khi Sư xuất gia, lúc đó Sư đang dùng cơm trưa, người bạn phát hiện, trên bàn ăn chỉ có một bát cơm trắng và một đĩa dưa muối. Trong lòng bất nhẫn, hỏi:
– Dưa muối này, lẽ nào anh không biết là nó mặn lắm hay sao? Sư trả lời:
– Mặn có mùi vị của mặn.
Ăn xong, trong bát còn một ít dưa muối, Sư rót một chút nước nóng tráng qua rồi uống, lại uống thêm một tách nước trắng. Người bạn lại chịu không nổi, hỏi:
– Không có trà ư, uống nước trắng không cảm thấy nhạt nhẽo sao?
Pháp sư Hoằng Nhất mỉm cười trả lời:
– Nước trắng tuy nhạt, nhạt cũng có mùi vị của nhạt.”
Trong nhạt (vô vị), có một ý vị cao túc (vị); trong nhạt, có một nhân tình thế thái lịch luyện và kinh nghiệm. Còn hạng người như thế nào, mùi vị như thế nào, có đáng để bạn tận tâm nghiền ngẫm mùi vị đó không?
Cho nên, vị” thứ hai trong trà, chính là “vô vị”. Từ “xanh chát” đến “đạo lý tình người” đến “bổn tâm”, từ “mùi vị” đến “không vị”, luôn luôn có một quá trình như vậy. Đầu tiên phải từ vị, đến giữa vị, cuối cùng là vô vị. Giữa việc nếm trà, nếm trải cuộc sống, nếm trải sự tình, điều bạn phải làm là buông bỏ bản thân, trút bỏ những ngoan cố, chấp trước, cuối cùng bạn mới có thể hiểu được mình đang yêu cầu điều gì, rốt cuộc mình đang muốn điều gì. Không phải ai đó nói uống Nham trà là ngon nhất thì uống Nham trà, cũng không phải ai đó nói uống trà Thiết Quan Âm là đệ nhất thiên hạ thì uống trà Thiết Quan Âm. Mà là trong lúc nhấp một ngụm trà, phân biệt tỉ mỉ thế thái nhân tình, hiểu rõ chính mình cần cái gì, hiểu rõ mình là ai. Đến vô vị của trà, vô vị trong trà chính là đại vị!
Trương Thanh – Thanh Như (dịch) (ĐSHĐ-126)
- Phổ nhĩ Phụng Hoàng Đà (普洱凤凰沱): là tinh phẩm được lưu truyền trong trà Phổ nhĩ Đà, cũng là thương hiệu trà Phổ Nhĩ tiêu biểu và có ảnh hưởng nhất ở tỉnh Vân Nam.
- Lão tùng Thủy Tiên (老枞水仙): Vọng tộc trong Vũ Di Nham Trà (trà Ô Long) lịch sử trồng trọt hàng trăm năm. Vốn đến từ Đại Hồ Thủy Cát, tương truyền được phát hiện dưới hang động Chúc Tiên, cho nên, có tên là Chúc Tiên. Do từ địa phương “Chúc” (祝) và “Thủy” (水) có cách phát âm giống nhau, về sau quen gọi chúng là Thủy Tiên.