Ba khuynh hướng chấp ngã
a) Thắng luận (Vaiśeṣika): Cho rằng tự thể của ngã thường hằng, tồn tại khắp nơi, lượng đồng hư không. Tùy theo môi trường mà ngã tạo nghiệp, chịu quả khổ vui. Tự ngã là tác giả.
Saṃkhyā: Thần ngã (puruṣa) không phải là tác giả.
– Chịu khổ vui thì thân phải ở một chỗ, không thể cùng khắp được. – Thường hằng thì không thể chuyển động, không có động tác, lấy đâu tạo nghiệp, chịu quả?
– Nếu đồng nhất, khi một cá thể tác nghiệp/ lãnh quả/ chứng đắc, tất cả cũng tương tự =>
hỗn tạp, không hợp lý.
b) Ni-kiền tử (Nigrantha-putra): Cho rằng tự thể của ngã thì thường hằng nhưng lượng
của nó thì bất định; bởi vì nó trải rộng hay thu nhỏ tùy theo sự lớn hay nhỏ của thân.
– Nếu tự thể thường trú thì không thể trải rộng hay co rút tùy theo thân. Như gió không thể là thường trú.
– Ngã có thể bị chia chẻ tùy theo thân, như thế làm sao có thể cho rằng tự thể của ngã nhất thể.
c) Tự Tại Thiên (Maheśvara) = Thú chủ (Paśupati): Chủ trương tự thể của ngã là
thường hằng, và cực kỳ vi tế như một cực vi, tiềm tàng chuyển vận trong thân để tạo
tác sự nghiệp.
– Ngã bằng như một cực vi, làm sao có thể khiến cho toàn thân to lớn chuyển động.
– Cho ngã chuyển động toàn diện thì không phải là nhất thể, không phải thường hằng.
d. Nếu không có thực ngã, thì cái gì ký ức, nhận thức, hành động, chịu khổ,
chứng thánh?
– Ngã không có thực thể (phi ngã) # không có ngã (vô ngã).
– Thể của hành vi do giả ngã tạo tác không tách rời khỏi dụng, nên các hành động đều
trổ quả.
– Hữu tình có thức kho tàng, chứa các giống tương tục, hỗ tương, nên chỉ cần xúc
tác là hoạt dụng.