Cứ hai năm thành phố Hà Nội tổ chức Đại Giới đàn một lần dành cho các Giới tử trong thành phố Hà Nội được đăng đàn thụ giới tu học.
Khi bước vào Giới đàn chúng ta nhìn thấy ba chữ “TUYỂN PHẬT TRƯỜNG” rất lớn. Từ xưa đến nay, không phải ngẫu nhiên, Đại Giới đàn nào, Ban Tổ chức cũng treo biểu ngữ “TUYỂN PHẬT TRƯỜNG”. Điều đó khẳng định mục đích và ý nghĩa Phật sự này nhằm tuyển người học Phật và làm Phật, chứ không làm gì khác.
Theo Bích Nham Lục, quyển Hạ ghi: “Tuyển Phật Trường là tuyển những người tu hành, sau này có khả năng thành Phật, thành Tổ. Nếu tuyển người làm Phật, làm Tổ mà không có con mắt như thế thì dù một nghìn năm cũng không làm được việc gì.” Xem ra tuyển người học Phật và làm Phật đã trở thành một Phật sự cực kỳ quan trọng không chỉ Ban Tổ chức Giới đàn mà cả một Giáo hội Ni đoàn bất cứ thời đại nào, không gian nào trong sự nghiệp hoằng dương chính pháp, lợi lạc quần sinh, nhất là những người chính thức đứng vào hàng ngũ Ni đoàn thực thi sứ mệnh tự độ và độ tha…
Một vị Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na hay Sa-di-ni khi đã phát nguyện chính thức đứng vào hàng ngũ Ni đoàn thì vị đó, (Giới tử) phải ý thức đúng đắn về quyết định của mình trong việc cầu giới pháp. Giới tử cần có một số kiến thức căn bản về giáo lý Phật đà, nhận biết điều hay, điều lợi lạc nơi mình nương tựa. Giới tử phải có đủ sức khỏe, chịu đựng được mọi hoàn cảnh, môi trường sống với thời tiết, ăn uống đạm bạc, ngủ nghỉ có giới hạn, tinh thần vững vàng, kiên nhẫn với mọi thử thách, không bị ràng buộc bởi hoàn cảnh gia đình, địa vị xã hội… trên hết là giới tử phải phát tâm dõng mãnh thụ giới và giữ giới sau khi được truyền trao. Nói tóm lại, sinh mệnh của Ni đoàn là giữ gìn giới luật, tự thân của Ni đoàn là sự hòa hợp và thanh tịnh. Đây cũng là điều kiện căn bản và cốt lõi quyết định cho giới tử Ni nào được trao truyền giới luật trong việc “Tuyển Phật Trường.”
Trong các bộ luật như Tứ phần, Ngũ phần đều quy định Giới tử Ni trước khi thụ giới không mắc 13 chướng ngại còn gọi là “chướng nạn” hay “già nạn”. Chính những chướng nạn này làm trở ngại việc tu tập và phát triển của một tổ chức Ni đoàn sau này. Hay nói cách khác: Ni đoàn là hình ảnh của Đức Phật, mang trọng trách “Tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự” (thừa sứ mệnh của đức Như Lai và thực hiện sự nghiệp cao cả của Đức Phật). Do đó, khi tuyển chọn người xuất gia học Phật cần phải tuân thủ một số điều kiện tương đối nghiêm ngặt, hầu tuyển chọn được những người có thân tướng đoan nghiêm và phẩm chất ưu việt. Điều này nhằm mục đích tránh sự chê bai của người đời, khiến xã hội sinh tâm tin tưởng và tôn kính. Âm Hán Việt gọi là: “Tị thế cơ hiềm, linh nhân sinh khởi tín tâm”. Nhờ vậy Giới tử sau này khi trở thành thành viên chính thức của Ni đoàn mới đủ khả năng thăng tiến tâm linh và uy đức cảm hóa tha nhân cùng mình hướng tâm đến giác ngộ giải thoát sinh tử…
Ngoài những chướng pháp trên, còn một số tài liệu Luật ghi thêm rằng, người thụ giới phải có tướng mạo nghiêm trang, năm căn đầy đủ, không đui, què, câm, điếc, ngọng, không quá cao, quá thấp, không quá đen, quá trắng mới được tuyển chọn. Thiết nghĩ, các căn không đầy đủ có thể gây trở ngại cho việc tu tập, các điều kiện còn lại và các điều kiện về các căn có lẽ là tránh cho sự gièm pha ác ý của một số người xấu hoặc của người ngoại đạo, nhất là khi Phật giáo đang phát triển.
Một người mới xuất gia học đạo, sau khi lĩnh thụ giới Sa-di-ni, Thức-xoa-ma-na, đủ 20 tuổi mới hội đủ điều kiện để thụ Cụ túc giới, trở thành thành viên chính thức của Ni đoàn. Cụ túc giới, nghĩa là giới bản đầy đủ của một vị Tỳ-kheo-ni gồm 348 giới. Một người cầu thụ giới Cụ túc phải tự ý thức mình sẽ trở thành thành viên của Ni đoàn, do đó vị ấy luôn tâm niệm là biểu trưng một trong ba ngôi báu của Tam bảo.
Ý nghĩa cao quý này đòi hỏi vị Tỳ-kheo-ni là một người thanh tịnh, hòa hợp. Thế nên một trong những điều kiện căn bản để tuyển vào Phật trường là phải thành tâm thực thi giới hạnh. Vai trò của giới luật vô cùng to lớn trong việc làm hóa hiện các điều thiện, trừ diệt các điều bất thiện có nguy cơ nảy mầm. Nhờ giữ giới mà giới tử có thể đến bờ giác ngộ. Trong bài Thụ giới luận của Khóa Hư Lục, Trần Thái Tông viết: “Kinh vân: Giới như bình địa, vạn thiện tòng sinh. Giới như lương y, năng liệu chúng bệnh. Giới như minh châu, năng phá hôn ám. Giới như thuyền phiệt, năng độ khổ hải.”
Nghĩa là: Trong Kinh nói rằng: “Giới như mặt đất bằng, mọi điều thiện từ đó sinh ra. Giới như thầy thuốc giỏi chữa được các bệnh. Giới như hạt minh châu, phá vỡ mọi tối tăm. Giới như thuyền bè, vượt qua bể khổ.”
Mặt khác, người xuất gia, đệ tử của Phật, sống trong một đoàn thể không phải một người, hai người mà rất nhiều người, thời Phật còn tại thế kinh điển thường ghi có 1.250 vị Tỳ-kheo. Với số đông như thế, nếu không có giới luật thì biết căn cứ vào đâu để hòa hợp, tương ưng cùng nhau chung sống? Thực tế mỗi người có một căn tính, điều kiện khác nhau nếu không có kỷ cương giới pháp để răn dè, kiêng giữ thì sẽ dẫn đến bất hòa, không dễ dàng tiến tu đạo nghiệp. Cho nên, Phật dạy việc thành tâm thực thi giới hạnh khiến cho Ni đoàn mỗi ngày thêm hưng thịnh.
Trong Luật Thiện Kiến, Phật từng dạy Tôn giả A-nan có 5 điều làm cho giáo pháp Như Lai tồn tại lâu bền:
1. Hàng đệ tử Phật biết tuân giữ Tỳ-ni luật.
2. Tịnh Tăng (Ni) thành chủng: Dù chỉ có 05 người xuất gia mà giữ giới thanh tịnh, thì đó cũng là một yếu tố quan trọng để giáo pháp tồn tại lâu dài.
3. Truyền thụ bất diệt: Nếu có 10 người lập giới đàn truyền thụ giới xuất gia, ở biên quốc có 05 người, sự truyền thụ như thế dưới hình thức 10 người hay 05 người, từ chỗ này đến chỗ khác, quốc độ này đến quốc độ khác, cũng là yếu tố khiến Phật pháp trụ thế lâu đời.
4. Hạnh nghiệp thanh tịnh: Khi đã lĩnh thụ giới pháp thì giới pháp chính là những mối ưu tư, những mục tiêu tuân hành. Nếu Ni chúng phạm giới mà liền biết sám hối, tập chúng 20 người theo Luật định, để xuất tội nặng những vị Tỳ-kheo-ni phạm giới, khiến cho những vị ấy cũng được thanh tịnh như bao nhiêu vị Tỳ-kheo-ni khác, thì đó là yếu tố làm cho giới pháp tồn tại lâu dài.
5. Trú trì vĩnh cửu: Với tất cả tấm lòng phát tâm thụ giới và hội đủ các điều kiện nói trên, các Giới tử được Hội đồng Thập sư trao truyền giới của mười phương chư Phật ba đời làm hành trang trên bước đường tu học cho đến ngày giác ngộ viên mãn.
NS. Đồng Hòa (ĐSHĐ-115)
Diễn đọc: Quảng Hiếu