Mâm ngũ quả gồm 5 thứ quả được trưng bày trên bàn thờ vào dịp Tết Nguyên đán. Tùy theo từng vùng trưng bày những loại quả khác nhau. Ở Nam bộ mâm ngũ quả luôn có 5 loại trái cây gồm mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài và sung. Năm loại quả này có màu sắc hài hòa xanh, vàng, hồng, nâu khiến cho khí chất âm dương cùng được hội tụ trong mâm quả trên bàn thờ gia tiên, để hướng tới một năm mới nhiều may mắn…
Năm loại quả ấy chẳng những ăn ngon, bổ lại còn có tác dụng trị liệu khá phong phú, được coi là “Vị thuốc Nam quanh vườn”. Mãng cầu (xiêm), khi chín ngoài vị thơm ngọt còn là vị thuốc bồi dưỡng, tăng sức đề kháng cho cơ thể. Đặc biệt góp phần chữa bệnh thiếu vitamin C, gây chảy máu chân răng, viêm loét lưỡi, viêm lợi. Các quả bị đẹt có thể đem sao vàng rồi sắc nước uống trị cao huyết áp. Còn lá mãng cầu xiêm người ta hái vào, rửa sạch, giã với muối hột, đắp lên trán chữa đau đầu…
Theo cố GS. Đỗ Tất Lợi, quả dừa vừa để uống nước, vừa ăn cơm dừa. Riêng nước dừa có chứa rất nhiều a-xít a-min, glu-cô và một số yếu tố dinh dưỡng khác. “Nước dừa non có tính chất thông tiểu, có thể dùng thay huyết thanh khi cần thiết”. Dầu dừa cũng là vị thuốc và có thể thay dầu ăn trong chế biến. Ngoài ra, dầu dừa còn được các chị, các bà dùng để chải tóc cho mượt.
Trái đu đủ chín là một loại quả có nhiều chất dinh dưỡng, bổ, ngon lại có tác dụng trị táo bón rất tốt, nhưng phải dùng cho đúng liều lượng. Trong nhựa đu đủ xanh, có men pa-pa-in. Khi còn trên cây, rạch quả lấy nhựa phơi khô, bảo đảm vô trùng, trộn với bột phụ liệu, rắc lên vết thương, có tác dụng hút mủ, mau sạch, mau lành, liền sẹo.
Trái xoài khi chín thì vỏ có tác dụng cầm máu tử cung, khái huyết, cầm chảy máu ruột, dùng dưới dạng cao lỏng, với liều lượng 10g cao lỏng cho vào 120ml nước rồi cứ cách một, hai ngày cho uống một muỗng cà phê. Còn hột xoài, người dân Malaysia, Ấn Độ và Brasil thường dùng làm thuốc trị giun, sán. Tại Malaysia, người ta dùng vỏ xoài chữa chảy máu tử cung, trĩ. Tại Philippine người ta dùng chữa tiêu chảy.
Quả sung tuy có ít chất bổ dưỡng, nhưng có tác dụng chữa bệnh. Nhựa sung được người dân coi là một món thuốc quý, phết lên giấy bản, dán vào hai bên huyệt thái dương chữa nhức đầu, dán vào chỗ đau để chữa một số bệnh ngoài da, như chốc, ung nhọt, sưng đau, tụ máu. Quả sung còn chữa viêm họng bằng cách sấy khô, tán thành bột, rồi lấy bột này thổi vào họng. Hoặc lấy quả sung tươi gọt vỏ, thái mỏng, sắc kỹ lấy nước cho thêm đường phèn rồi cô nhỏ lửa thành dạng cao, để ngậm mỗi ngày có thể trị lành viêm họng.
Khi bị ho khan không có đờm, người ta lấy quả sung chín và quả tươi từ 50-100g, sau đó gọt bỏ vỏ đem nấu cháo với từ 50-100g gạo, chia ra ăn vài lần trong ngày. Có thể dùng kèm với một số ít nho khô hay đường phèn cho ngon miệng có thể trị bệnh ho khan. Khi bị hen phế quản, người ta cũng dùng quả sung tươi giã nát, ép lấy nước cốt uống hàng ngày. Nếu bị viêm loét dạ dày, tá tràng có thể lấy quả sung sao khô, tán bột. Mỗi ngày dùng từ hai đến ba lần (mỗi lần dùng từ 6g đến 9g) dùng với nước ấm.
Khi bị rối loạn tiêu hóa có thể lấy 30g quả sung thái nhỏ, sao hơi cháy. Mỗi ngày lấy 10g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút lấy ra uống, cho thêm một chút đường phèn uống thay trà trong ngày sẽ chóng khỏi.
Mâm ngũ quả của người Nam bộ vừa thể hiện niềm mong ước khiêm nhường, mang thanh âm cho 5 loại quả: “Cầu vừa đủ xài và sung”. Với góc nhìn về dinh dưỡng của 5 loại quả là ngon, bổ, đủ các khoáng chất, các vitamin cần thiết cho nhu cầu của cơ thể. Quả là một sáng tạo độc đáo của người dân Nam bộ xưa.
Đàm Vũ Tri (ĐSHĐ*102)
Sc Trung Niệm diễn đọc