Khuyên nhau tinh tấn tu hành
Phổ Hiền hạnh nguyện viên thành lý sâu
Văn Thù trí phát tìm cầu
Tri Hành hợp nhứt nhiệm mầu Pháp Hoa.
Thật vậy, phẩm Phổ Hiền Khuyến Phát trong kinh Pháp Hoa, có nghĩa là khuyên hành giả thọ trì kinh Pháp Hoa phải phát khởi hạnh Phổ Hiền. Phổ Hiền được biểu trưng cho hạnh tinh tấn. Hạnh rộng khắp pháp giới là Phổ, đạt quả vị gần Phật là Hiền.
Nếu Phổ Hiền biểu trưng cho Lý, thì Văn Thù biểu trưng cho Trí. Phổ Hiền là Hành, thì Văn Thù là Tri. Chúng sanh trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi, nguyên nhân là “bối giác hiệp trần”, quên đi tánh giác bám theo trần lao. Trần lao là thứ vô thường, nên đã theo nó, tức phải lưu chuyển theo nó. Nếu chúng sanh thức tỉnh, rời trần lao, quay về giác tánh, quay về cội nguồn thời khỏi hẳn luân hồi, vì giác tánh là bổn thể Chân như thường trú.
Sau khi Đức Phật diệt độ, đệ tử Phật muốn được Pháp Hoa tam muội, cần phải có bốn điều:
– Được các Phật hộ niệm, nghĩa là phải thắp sáng hiện hữu, tâm thường phải giác chiếu, không để cho tà niệm xen tạp.
– Trồng cây công đức: là hành gỉả phải phát triển hạnh lành.
– Siêng tu Chánh định: phải giữ tâm thanh tịnh, ngăn dứt vọng niệm, nhơn, ngã, thị phi.
– Phát tâm cứu tất cả chúng sanh, thể hiện lòng từ qua hành động vị tha vô ngã.
“Thậm thâm vi diệu pháp mầu
Tinh cần gieo giống ươm mầm thiện căn
Định tâm trí huệ gia tăng
Trở về Giác tánh thường hằng Chơn Như.”
Ngài Phổ Hiền vì thương chúng sanh nên đã phát mười đại nguyện:
– Một là lễ kính các Đức Phật:
Đã kính lễ Phật, tất nhiên phải biết rõ, hạnh đức, thần thông, trí tuệ vô thượng của Phật, đây là biểu tượng trái trần lao, mà hiệp với tánh giác vậy.
– Hai là khen ngợi Đức Như Lai:
Việc tán thán công đức, chính là biểu hiện của sự biết rõ về đức hạnh của Phật, rồi qua khâm phục khen ngợi, ân đức sâu dày lễ lạy và tán thán cũng chưa đủ. Bồ tát Phổ Hiền lấy sự cúng dường làm điều nguyện thứ ba.
– Ba là rộng sắm đồ cúng dường:
Cúng dường có hai cách: Tài cúng dường và Pháp cúng dường:
• Tài cúng dường: là dùng phẩm vật như: hương, hoa, trà, quả, v.v…
• Pháp cúng dường: là y theo lời dạy của chư Phật mà tu hành, dùng tâm Bồ Đề để cúng dường v.v…
– Bốn là sám hối nghiệp chướng:
Nghiệp chướng là những điều làm chướng ngại trên đường tu, do thân, khẩu, ý gây nên (thân tam, khẩu tứ, ý tam mười điều. Nếu mình thực hành sát, đạo, dâm, vọng ngôn, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ. Ý có: tham, sân, si), đấy gọi là mười điều ác, thì cửa tam đồ ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh sẽ đón mình. Nay biết tu, mình thành tâm sám hối, thì nghiệp chướng sẽ được tiêu lần. Và thập ác đổi lại thành thập thiện, nghĩa là:
• Không sát sanh mà còn phóng sanh.
• Không trộm cắp mà còn bố thí.
• Không tà dâm mà còn phòng hộ gia đình của mình và của người.
• Không nói dối, không nói thêu dệt, không nói lời hung ác, chỉ nói lời chân thật v.v…
Như thế mình sẽ được quả báo an vui, như ở cõi trời.
– Năm là tùy hỷ các công đức:
Ở nơi công đức của người, mà mình có niệm tán thành kính mộ thời mới có sự phát tâm làm theo, tu tập theo.
– Sáu là thỉnh Phật chuyển pháp luân:
Đã có quan niệm tán thành ngưỡng mộ công đức vô thượng. Vì thế, nên Bồ tát gấp thỉnh Đức Phật chuyển bánh xe Chánh pháp. Vì muốn cho Chánh pháp có phần quý trọng, có quý trọng, có khát ngưỡng, mới để tâm lắng nghe rồi thực hành, mới đem lại nhiều lợi lạc cho chúng sanh.
– Bảy là thỉnh Đức Phật ở lại đời:
Lòng của Bồ tát lúc nào cũng tha thiết đối với sự lợi người, lợi mình. Nên hiện tại chúng hội được diện kiến Đức Như Lai, được nghe pháp âm của Ngài. Nhưng lo tương lai thiếu huệ nhật nếu Đức Phật nhập diệt, nên Bồ tát đã tha thiết thỉnh Phật mãi mãi trụ thế, để làm lợi ích cho chúng sanh.
– Tám là thường học đòi theo Phật:
Đã được nghe pháp âm của Đức Như Lai, nhưng nghe rồi phải để tâm suy nghĩ, suy nghĩ rồi đem áp dụng trong đời sống hàng ngày, thì mới lợi lạc “Văn nhi tư, tư nhi tu.” Nghĩa là nghe rồi phải thực hành theo những công hạnh như Phật.
– Chín là hằng tùy thuận chúng sanh:
Hai chữ tùy thuận ở đây, chính là ý thiết tha lân mẫn chúng sanh, chiều theo chỗ nguyện vọng trong sạch của chúng sanh, mà thi hành những phương pháp gì để chúng sanh được lợi ích, trên con đường còn đang tu học.
Bồ tát đã thực hành hạnh Từ bi, nên chúng sanh khổ là mình khổ, chúng sanh vui là mình vui, tất cả công hạnh tu tập chính là vì chúng sanh mà tu tập. Nên Bồ tát có bao nhiêu công đức đều hồi hướng cho cả pháp giới chúng sanh, mong cho cả thảy mọi loài sớm thoát khỏi khổ sanh tử.
Điều nguyện thứ mười của Bồ tát Phổ Hiền là:
– Phổ giai hồi hướng:
Trong kinh Pháp Hoa nói Phổ Hiền cho chú Đà la ni có nghĩa là hành giả với sức tinh tấn của mình, rồi sẽ đạt đến “Vô phân biệt trí”, do sức tinh tấn thọ trì, đọc tụng kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đó là kết quả “Tri hành hợp nhất”. Hành giả đạt đến chỗ “Tri hành hợp nhất” là nhiệm vụ của Ngài Văn Thù và Ngài Phổ Hiền được hoàn thành.
Cũng với ý nguyện vào đời cứu khổ chúng sanh, Ngài Phổ Hiền biểu trưng cho hạnh tinh tấn là Lý, còn Ngài Văn Thù biểu trưng cho Trí, dùng lý trí để độ sanh, thì không bị thất tình, lục dục, kéo lôi vào đường mê lối hiểm. Là đệ tử Phật phải do “Văn, Tư, Tu”, là một tiến trình liên tục không thể thiếu. Cái vạc ba chân, thiếu một chân không đứng vững được. “Văn, Tư, Tu” thiếu một món không thể giải thoát, giác ngộ. Đức Thế Tôn thường dạy: “Tin Ta mà không hiểu Ta, tức là phỉ báng Ta.” Nghĩa là Đức Thế Tôn dạy rằng: “Nghe lời nói của Ngài, nhưng phải tư duy lời nói ấy đúng hay sai, rồi mới đem ra thực hành, có như vậy đời sống của chúng ta ngày một thăng hoa, gia đình ngày thêm hạnh phúc.” Còn ngược lại có một số người, trên danh nghĩa tuyên dương Chánh pháp, nhưng thực chất nói việc huyễn hoặc, hoang đường, làm mê lòng người nhẹ dạ cả tin, cuối cùng “Nhứt manh dẫn quần manh”, nghĩa là một người mù dẫn một đám người đui là vậy. Tổ Quy Sơn dạy: “Kim sanh tiệm tu quyết đoán, tương liệu bất do biệt nhơn”, phát xuất từ ý kinh này. Đừng mơ mộng viển vông, thực tế bạn phải định đoạt số phận của bạn, chớ không trông chờ ai khác. Bạn phải phát huy cái tinh thần độc lập tự do ở trong bạn, cái Phật tánh vốn có, cái tự tánh sáng suốt luôn luôn thường trú ở nơi tâm, trở về nương tựa hải đảo tự thân, là nơi bình yên nhất.
“Bình an, tâm tự tại
Suy nghĩ rõ lời Ngài
Luôn tu cho tinh tấn
Trong hiện tại, vị lai
Lời Như Lai chơn chánh
Nên tướng lưỡi rộng dài
Văn, Tư, Tu, Định huệ
Chỉ nhứt thừa chẳng hai.”
Phật nói pháp bình đẳng, thật lý mà nói chỉ có một Phật thừa. Trong những kinh điển được xem là Tiểu thừa, vẫn có cái mầm là Đại thừa, có tư tưởng tối thượng thừa trong đó. Tùy trí huệ nhận thức của từng căn tánh, từng đối tượng mà thấy có hoặc không.
Hạnh Phổ Hiền là hạnh tinh tấn trong tinh tấn. Người thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa là người thấy tánh, cho nên, Đức Phật thọ ký tương lai sẽ được thành Phật. Chúng sanh và Phật cùng một nguyên quán. Nhưng vì bất giác sống trái với chân tánh, khi cảm thọ sắc thân, chạy theo Lục trần, nay nhờ nghe, học và thực hành kinh Pháp Hoa “Bối trần hiệp giác”, trở về nhà Như Lai Viên Giác Diệu Tâm, sống từng phút giây an lạc trong hiện tại.
“Thoang thoảng hương trầm theo gió bay
Trở về bản thể tánh Như Lai
Từng không vết nhạn nào in dấu
Nước trong trăng hiện chẳng khứ lai.”
(Tài liệu tham khảo: Pháp Hoa thâm nghĩa đề cương của HT. Thích Từ Thông).
TKN. Phước Giác
Diễn đọc: SC Đức Tạng